A.MB: Đôi nét về tác giả, tác phẩm
Vấn đề nghị luận: Bức chân dung, vẻ đẹp tâm hồn HCM
B. TB
1. Khát quát vẻ đẹp tâm hồn HCM
- Mỗi bài thơ trong “Nhật kí trong tù” là 1 nét vẽ phác họa cho bức chân dung con người, tinh thần của HCM. Cho dù có cố ý hay không thì điều đó vẫn cứ xảy ra bởi 1 lẽ rất đơn giản: Văn là người...
- Nói đến vẻ đẹp tâm hồn HCM, người ta nghĩ đến vẻ đẹp của trái tim, khối óc, vẻ đẹp của tinh thần, ý chí, nghị lực, của lòng khiêm tốn, đức hi sinh cao cả...
- Được viết trong một hoàn cảnh đặc biệt: Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ (Mùa thu 1942 – Mùa thu 1943), bài thơ là sự tỏa sáng của tâm hồn, lí trí, nghị lực, trí tuệ... của HCM trong hoàn cảnh ngục tù.
2, Vẻ đẹp tâm hồn HCM, bức chân dung con người.
a, Tâm hồn
Chiều tối, đúng như tiêu đề của nó là bức tranh thiên nhiên về cảnh chiều muộn ở nơi rừng núi, một bức tranh thiên nhiên mà người tù HCM đã ghi lại trên hành trình chuyển lao. Vì lẽ đó, vẻ đẹp tâm hồn HCM thể hiện trong bài thơ trước hết là vẻ đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ với những rung cảm nhạy bén, tinh tế, sâu xa trước vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống con người.
- Triển khai luận điểm:
+ 2 câu đầu: tình yêu thiên nhiên (chú ý phân tích sự tinh tế trong tâm hồn tác giả khi cảm nhận. miêu tả hình ảnh cánh chim, chòm mây)
+ 2 câu sau: tình yêu con người (hình ảnh con người lao động làm trung tâm => quan điểm hiện đại, trái với thi ca trung đại cái tối trữ tình ẩn sau cảnh vật... ; đề cao con người lao động... )
b, Vẻ đẹp ý chí, khí phách
-Ý chí kiên cường, tinh thần thép của người Cộng sản
• Cần chú ý cách lập luận:
Chiều tối cũng như cái bài thơ viết về thiên nhiên của HCM (Ngắm trăng, Trên đường đi...), nhìn trực tiếp vào câu chữ thì không thấy ý chí, nghị lực (tức là không thấy “thép”). Phải chăng những bài thơ như vậy không có chất “thép”?
Vấn đề này, nhà phê bình Hoài Thanh cho rằng: “Khi Bắc nói trong thơ có “thép” thì ta cũng nên hiểu thế nào là thép ở trong thơ? Không phải cứ nói chuyện thép, lên giọng thép mới có thép”
Đúng là “Chiều tối” không nói chuyện thép, lên giọng thép nhưng không có nghĩa là không có thép. Chất thrps ở bài thơ không “lộ thiên” ở câu chữ mà nằm sâu xa trong hoàn cảnh ra đời:
+ Không phải được viết trong hoàn cảnh bình thường của cuộc sống (1 chuyến đi thực tế, 1 chuyến du ngoạn,...), Chiều tối được viết trên hành trình chyển lao – một hành trình đầy gian nan, người tù bị “dựng dậy” để bắt đầu cuộc hành trình từ lúc “gà gáy một lần đêm chửa tan”... cho đến lúc “chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ” mới được dừng chân.
+ Với lộ trình “năm mưới ba cấy số một ngày”, nơi dừng chân có thể là một nhà lao mới, một nhà kho ẩm ướt, thậm chí là “ngồi trên hố xí đợi ngày mai”...
Nhưng thật kì diệu là trong một hoàn cảnh như vậy, Người vẫn làm thơ, vẫn để cho tâm hồn mình bay bổng lên với một cánh chim, một chòm mây, một làn hương rừng, một cảnh “làng xóm ven sông đông đúc thế”... Thử hỏi, nếu không có một tinh thần thép, một bản lĩnh thép, thơ của người làm sao có thể: “bay cánh hạc ung dung”... Đó thực sự là một cuộc vượt ngục tinh thần của Người theo đúng phương châm:
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn nên sự nghiệp lớn
Tình thần càng phải cao
Hoàn toàn chủ động trước hoàn cảnh, đó chính là vẻ đẹp của ý chí, nghị lực, là tinh thần thép của người Cộng sản HCM
c, Đọc thơ HCM, ta nhận ra một quy luật: trong hầu hết các bài thơ của Người, từ tư tưởng đến hình tượng nghệ thuật luôn vận động 1 cách tự nhiên, nhất quán, hướng về sự sống, về ánh sáng và tương lai: Kết thúc bài thơ luôn là hình tượng bình minh hoặc mặt trời:
“Trong ngục giờ đây con tối mịt
Ánh hồng trước mặt đã bừng soi.”
(Ngắm cảnh)
Hay:
Phương đông màu trắng chuyển sang hồng
(Giải đi sớm)
Đó là sự thể hiện của tâm hồn lạc quan vào cách mạng, một niềm tin vào tương lai tươi sáng, và Chiều tối không năm ngoài quy luật đó.
- “Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng”
(Sơn thôn... hồng)
=> Phân tích chữ “hồng” có thể hiểu là màu sắc thực của lò than... nhưng chủ yếu được hiểu theo nghĩa tượng trưng: màu của ngày mai, của tương lai tươi sáng...
Có thể nói, chữ “hồng” từ cuối bài thơ đã tạo ra một luồng sáng rọi ngược trở lại làm “sáng rực bài thơ, làm mất đi sự mệt mỏi, uể oải, sự vội vã, nặng nề... Nó sáng bừng lên, nó cân lại, chỉ một chữ thôi, với 27 chữ còn lại” – Hoàng Trung Thông.
C. KL
Chiều tối giống như bao bài thơ khác, thật nhỏ nhắn trong bố cục nhưng mỗi câu có thể được xem là một nét phác họa bức chân dung con người, tinh thần HCM: một tâm hồn nghệ sĩ dào dạt tình yêu với thiên nhiên, con người; một ý chí vượt lên hoàn cảnh, làm chủ hoàn cảnh; một tinh thần lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng.
Bức chân dung ấy là sự hòa hợp giữa chất thép và chất tình, thi sĩ và chiến sĩ...
Bài thơ số 3 trong "Nhật kí trong tù" với nhan đề "Bị bắt ở phố Túc Vinh", Bác Hồ viết:
"Túc Vinh mà để ta mang nhục,
Cố ý làm cho chậm bước mình;
Bịa đặt vu ta là gián điệp,
Không dưng danh dự phải hi sinh".
(Nam Trân dịch)
Trên đường sang Trung Quốc công tác, Bác Hồ đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô cớ. Phố Túc Vinh trên tỉnh Quảng Tây là khởi điểm hành trình đày đọa, khổ nhục trong suốt "Mười bốn trăng tê tái gông cùm" mà Bác phải nếm trải từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943. Tập "Nhật kí trong tù" gồm có 133 bài thơ chữ Hán được Người viết ra trong những tháng ngày đen tối ấy để "Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do". Nó đã phản ánh một tăm hồn lớn, một dũng khí lớn, một trí tuệ lớn của người chiến sĩ vĩ đại về phương diện thể hiện tâm hồn phong phú, cao đẹp, "có thể xem "Nhật kí trong tù" như một bức chân dung tự họa" của người tù vĩ đại (Văn 12).
"Nhật kí trong tù" chủ yếu mang tính hướng nội trữ tình, thể hiện một cách chân thực cảm động bức chân dung tinh thần tự họa của Bác trong chốn ngục tù. Đó là hình ảnh một con người có trái tim mênh mông "yêu nước, yêu người, yêu cỏ hoa". Là một bậc đại dũng kiên cường, bất khuất, ung dung, tự tại, lạc quan và yêu đời trong cảnh tù đày: "Kiên trì và nhẫn nại - Không chịu lùi một phân - Vật chất tuy đau khổ - Không nao núng tinh thần" (Bốn tháng rồi). Là một bậc đại trí hiểu sâu, hiểu rộng nhiều lĩnh vực, nhiều vấn đề, sắc sảo, tinh tế và mẫn cảm... Những phẩm chất cao đẹp ấy đều bắt nguồn từ bản chất của một tâm hồn yêu nước lớn, một tấm lòng nhân đạo lớn, một cốt cách nghệ sĩ lớn.
Bài thơ "Chiều tối" và "Cảnh chiều hôm" chỉ thể hiện một vài nét rất đẹp "bức chân dung tự họa" của người tù vĩ đại.
"Chiều tối" là bài thơ số 31 trong "Nhật kí trong tù” ghi lại cảm xúc của Bác vào lúc ngày tàn nơi xóm núi xa lạ, khi Người bị giải từ nhà tù Thiên Bảo đến nhà ngục Long Tuyền vào tháng 10 năm 1942. Mặc dù chân tay bị trói nhưng Người vẫn ngắm cảnh, dõi theo một áng mây lẻ loi lơ lửng trên bầu trời, một cánh chim mỏi mệt bay về rừng tìm cây trú ẩn:
"Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không".
Cánh chim thì mệt mỏi (quyện điểu), áng mây thì lẻ loi, cô đơn (cô vân): ngoại cảnh như đồng điệu với tâm cảnh của người tù sau một ngày dài bị giải đi. Cách nhìn, cách cảm và cách tả thể hiện một tâm hồn tinh tế giàu tình yêu thiên nhiên tạo vật. Cảnh vật thiên nhiên thoáng buồn nhưng rất đẹp, trở thành nơi nương tựa tâm hồn nhà thơ trên chặng đường khổ ải. Không có một đời sống tinh thần phong phú không thể viết được vần thơ mang màu sắc cổ điển như thế!
Từ bức tranh thiên nhiên chiều tối, nhà thơ nói đến cảnh đời thường dân dã nơi xóm núi. Hai câu cuối thể hiện sự vận động của thời gian và không gian:
"Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết lò than đã rực hồng".
Thiếu nữ xay ngô, một hình ảnh trẻ trung, cần mẫn. Chữ "ma" nghĩa là xa trông? câu thơ chữ Hán đưực điệp lại 2 lần "ma bao túc... bao túc ma hoàn... " đã làm nổi bật đức tính siêng năng cần mẫn của cô thiếu nữ xóm núi. Không phải là bếp lạnh tro tàn mà là “ bếp than đã rực hồng" gợi lên một cảnh đời ấm áp, đoàn tụ, no ấm và yên vui. Người chiến sĩ đi đày đã hướng tới con người lao động và ánh lửa hồng lò than, tìm thấy ít nhiều niềm tin yêu, xua đi sự cô đơn lẻ loi và mệt mỏi trên bước đường khổ ải. Chữ "hồng" nằm ở vị trí cuối bài tứ tuyệt, làm sáng bừng bài thơ "Chiều tối", là một nhãn tự mang ý nghĩa thẩm mĩ đặc sắc. Nhà thơ từ bóng tối đang hướng về ánh sáng và cuộc sống mà đi tới với sức mạnh của niềm tin và hi vọng. Chữ "hồng" tỏa sáng vần thơ và tâm hồn thi nhân biểu lộ một tinh thần lạc quan trong đày đọa. Nó là "màu đỏ" của tư tưởng, tình cảm Hồ Chí Minh; nó cho thấy "Ngục tối trái tim càng cháy lửa" (Hoàng Trung Thông).
Từ cánh chim, áng mây trên bầu trời đến hình ảnh thiếu nữ xay ngô và "lò than đã rực hồnỊg”, ta cảm nhận được sự vận động trong tâm hồn, tư tưởng, tình cảm Hồ Chí Minh. Đó là sự vận động từ bóng tối đến ánh sáng, từ buồn đến vui, từ lẻ loi cô đơn hướng về sự sống chứa chan niềm tin và hi vọng. Bài thơ "Chiều tối" gợi tả một nét vẽ đẹp, một gam màu sáng, bức chân dung tự họa của người tù vĩ đại.Đọc bài thơ "Cảnh chiều hôm" ta cảm nhận thêm một nét đẹp nữa trong "bức chân dung tự họa" cùng tinh thần của Bác. Đây là bài thơ số 114 trong "Nhật kí trong tù" được Người viết vào mùa xuân 1943 tại nhà ngục Cục chính trị chiến khu IV thuộc Liễu Châu, Trung Quốc, cảm hứng thiên nhiên trữ tình và cảm hứng tự do dào dạt bài thơ.
Hai câu thơ đầu cho thấy một con người giàu tình yêu thiên nhiên, nâng niu quý mến cái đẹp, cảm thương cho một kiếp hoa nở và tàn trước sự vô tình trong cõi đời:
"Hoa hồng nở, hoa hồng lại rụng,
Hoa tàn hoa nở cũng vô tình".
Hoa hồng tượng trưng cho cái đẹp. Hoa "sớm nở tối tàn", một kiếp hoa ngắn ngủi đáng thương! Cái đẹp sớm bị tàn tạ, hủy diệt. Đang sống trong cảnh cay đắng, tủi nhục tù đày, nhà thơ hướng tới cái đẹp bị tàn tạ với bao day dứt cảm thương. Nhà thơ với trái tim nhân đạo và tâm hồn nhân văn, vô cùng áy náy, không thể lạnh lùng dửng dưng. Tạo hóa và ai đó có thể vô tình, nhưng nhà thơ Hồ Chí Minh cảm thấy không thể vô tình với hoa, với cái đẹp đang tàn tạ. Tình thương của Người thật mênh mông.
Một tứ thơ mới xuất hiện. Hoa hồng tàn và rụng rồi, nhưng "linh hồn" hoa thì bất diệt, hương thơm của hoa vẫn tồn tại giữa đất trời. Cái đẹp được nâng niu. Cái đẹp được tái sinh và vĩnh hằng. Hương hoa đã tìm được khách thưởng thức, tri âm. "Một lòng đau tìm đến một lòng đau" (Lưu Trọng Lư), để cảm thông, để san sẻ và chia sẻ:"Hương hoa bay thấu vào trong ngục,
Kể với tù nhân nỗi bất bình".
Hương hoa được nhân hóa cùng với nhà thơ bất bình cho cái đẹp bị hủy diệt trước sự vô tình của tạo hóa, bất bình vì cái ác đang chà đạp, đang tước đoạt mất tự do. Sáns tạo ra hình tượng hương hoa, nhà thơ đã bày tỏ một cách chân thành, một tấm lòng nhân hậu bao dung chan hòa với tạo vật, yêu thương nâng niu cái đẹp, thiết tha tự do. Một tấm lòng nhân đạo, một cốt cách thi sĩ, nghệ sĩ là những nét vẽ có thần hiện lên "bức chân dung tự họa" người chiến sĩ vĩ đại Hồ Chí Minh qua bài thơ "Cảnh chiều hôm". Có hương hoa đẹp trong thơ vì có tâm hồn nhân văn đẹp, thanh cao trong cuộc sống. Sen tỏa hương ngào ngạt trong tâm hồn Người.
"Nhật kí trong tù" sáng mãi trong lòng ta "trăm bài trăm ý đẹp". Cho rằng tập thơ nhật kí bằng thơ của Bác là "bức chân dung tự họa" của người tù vĩ đại là một nhận xét đúng đắn, sâu sắc. Một tình yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp, một tấm lòng thiết tha với tự do, gắn bó cuộc sống bằng niềm tin và yêu đời - đó là những biểu hiện cao đẹp của nhân cách Hồ Chí Minh mà chúng ta cảm nhận được qua hai bài thơ "Chiều tối" và "Cảnh chiều hôm". Phẩm chất thi sĩ lồng trong phẩm chất chiến sĩ đã được thể hiện tinh tế thần tình, được chiếu sáng trên "bức chân dung tự họa" tinh thần Hồ Chí Minh.Tập thơ Nhật kí trong tù được Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tác khi Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm trong nhà tù Trung Quốc vào những năm 1942, 1943. Người viết tập thơ này dường như không có ý làm nghệ thuật, lưu danh hậu thế mà chỉ cốt để ngâm ngợi cho khuây khỏa những tháng ngày “mất tự do”. Tuy vậy, Nhật kí trong tù đã trở thành một tác phẩm lớn có giá rị về nhiều mặt trong lịch sử văn học Việt Nam cận, hiện đại. Nó có sức hấp dẫn lâu bền với nhiều thế hệ bạn đọc ở cả trong nước lẫn ngoài nước.
Mấy chục năm qua, kể từ khi tập thơ được công bố, nhiều người đã viết về tập thơ này. Họ nhấn mạnh đến giá trị phản ánh hiện thực, sức mạnh tố cáo của Nhật ký trong tù đối với chế độ nhà tù Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch. Tuy vậy, điều quan trọng nhất cần phải thấy: trước sau đây vẫn là một tập nhật kí bằng thơ, một tập nhật kí “hướng nội”, tác giả chủ yếu viết cho mình. Do đó, sức hấp dẫn của tập thơ chính là hình tượng của nhân vật trữ tình – tác giả Hồ Chí Minh, một chiến sĩ – thi sĩ. Vì vậy, hoàn toàn có lý khi sách giáo khoa Văn 12 đã khẳng định:
“Có thể xem Nhật kí trong tù như một bức chân dung tự họa con người tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh”
Đọc tác phẩm Nhật kí trong tù , chúng ta bắt gặp con người Hồ Chí Minh với tất cả vẻ đẹp, phong phú, sâu sắc trong tâm hồn, trong tính cách, trong cách nhìn, cách nghĩ suy về cuộc đời và con người. Nhật kí trong tù đúng là một “bức chân dung tự họa” bằng thơ về con người tinh thần của người sáng tạo ra nó.
Qua hơn một trăm bài thơ, ta có thể nhận thấy nỗi khắc khoải nóng lòng, sốt ruột ngóng trông tự do của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đọc còn nhớ, mùa thu 1942, với tư cách là đại biểu cho phong trào cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh có trọng trách tìm sang Trung Hoa để bàn cách phối hợp hành động chống bọn đế quốc, phát xít. Nhưng vô cớ, Người bị bọn mật vụ Quốc dân đảng bắt giữ và sau đó, bị giải đi hết nhà lao này đến nhà lao khác, không được xét xử. Người cũng hoàn toàn không được biết đến bao giờ mình mới được trả tự do. Hồ Chí Minh đau khổ vô hạn và thấm thía sâu sắc nỗi “mất tự do”. Nỗi đau khổ này được tác giả bộc lộ trong khá nhiều bài thơ. Chẳng hạn như trong một lần chuyển đổi nhà lao có bọn “cảnh binh khiêng lợn cùng đi”, Bác đã viết những câu thơ đầy cay đắng, biểu lộ một qui luật trong cuộc sống, mà qui luật này Người đã rút ra một cách thấm thía ngay trong cuộc sống đau khổ của chính mình:
Trên đời ngàn vạn điều cay đắng
Cay đắng chi bằng mất tự do
Hay, trong một bài thơ khác, bài Bị hạn chế, Hồ Chí Minh cũng khẳng định: Đau khố chi bằng mất tự do.
Nỗi sốt ruột khắc khoải chờ mong kéo dài theo ngày tháng đã chuyển thành sự giận dữ, phẫn nộ. Người đã đặt cho bài thơ một nhan đề hết sức độc đáo là chỉ có một dấu hỏi chấm (?)
Quảng Tây đi khắp lòng oan ức
Giải đến bao giờ, giải tới đâu?
Bên cạnh con người nóng lòng, sốt ruột, đau khổ vô hạn vì mất tự do, người đọc còn bắt gặp trong Nhật kí trong tù một con người hoàn toàn tự chủ về mặt tinh thần, luôn bình thản ung dung, tự tại, tâm hồn như bay lượn trên bầu trời tự do, không sức mạnh của nhà tù nào giam hãm được. Như vậy, có thể nói chúng có thể giam cầm được thể xác Bác, nhưng không khi nào chúng có thể giam cầm được tinh thần Bác. Điều này đã được chính tác giả thể hiện qua hai câu thơ mở đầu, được xem như lời đề từ của tập Nhật kí trong tù:
Thân thể tại ngục trung
Tinh thần tại ngục ngoại
Có nghĩa là:
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao.
Và không ít lần, Hồ Chí Minh thấy mình là “khách tự do”, thanh thản, ung dung, tự tại như là một khách tiên. Điều này được thể hiện qua khá nhiều bài thơ như Đi Nam Ninh, Giải đi sớm, Vào nhà lao huyện Tỉnh Tây và có lẽ tiêu biểu phải kể đến bài Ngắm trăng sau đây:
Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ;
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
Trong bài thơ này hoàn toàn không thấy tác giả nói đến nỗi đau khổ, bồn chồn vì bị mất tự do, mà chỉ thấy hình tượng một thi sĩ hết sức nhạy cảm và tinh tế trước vẻ đẹp của thiên nhiên.
Thực ra, trong chốn lao tù, ắt hẳn người thi sĩ đâu có được thưởng trăng một cách thoải mái. Có lẽ, song cửa nhà lao chỉ đủ cho lọt qua một chút ánh trăng thấp thoáng mà thôi. Song, cho dù chỉ như thế, nhưng với sức tưởng tượng phong phú, với tâm hồn yêu mến thiên nhiên, Hồ Chí Minh cũng cảm thấy dạt dào thi hứng, cũng cảm thấy bồi hồi xao xuyến trước cảnh đẹp của đêm trăng. Câu thơ thứ hai nguyên văn chữ Hán là:
Đối thử lương tiêu nại nhược hà?
Có nghĩa: Trước cảnh đẹp đêm nay biết thế nào?
Câu thơ dường như có một chút bối rối. Cái bối rối rất thi sĩ… Tiếc rằng câu thơ dịch “Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ” đã làm mất “cái bối rối” rất thi sĩ đó. Người xưa thưởng trăng thường hay có rượu và hoa. Ở trong tù, Hồ Chí Minh làm sao có được những thứ này? Cho dù thế, thi hứng của nhà thơ vẫn dạt dào:
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
Thi nhân và ánh trăng tựa hồ như đôi bạn tri âm, tri kỉ, có sự giao hòa tuyệt diệu. Ánh trăng vô tri vô giác qua tâm hồn của người tù thi sĩ trở thành một nhân vật đáng yêu, có tâm trạng, có linh hồn. Trên đây là những câu thơ đặc biệt ý vị. Ý vị không phải chỉ xuất phát từ kĩ thuật làm thơ mà điều quan trọng nhất vần là tâm hồn, là xúc cảm của người tù – thi sĩ Hồ Chí Minh…
Đúng là đọc Nhật kí trong tù, chúng ta được chứng kiến nhiều cuộc vượt ngục bằng tinh thần của người tù Hồ Chí Minh. Khi thì Người thả hồn theo một áng mây trôi, một cánh chim chiều, một vầng trăng non, lúc thì Người dõi theo một vầng dương buổi sớm, một cảnh làng xóm ven sông, hay cảnh buổi tối khi cô thôn nữ vừa xay xong ngô tối thì lò than đã ửng hồng. Đặc biệt, tâm hồn của Hồ Chí Minh luôn hướng về Tổ quốc, về đồng chí, đồng bào; ngay trong giấc ngủ, Người cũng luôn mơ về đất nước thân yêu. Có những đêm, Bác trằn trọc mãi không sao ngủ được, đến “Canh bốn; canh năm vừa chợp mắt – Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh”
Ngoài ra, trong “bức chân dung tự họa” của Hồ Chí Minh ta còn bắt gặp một trí tuệ lớn, một tầm tư tưởng lớn. Trí tuệ lớn trước hết thường được thể hiện qua cái nhìn đối với hiện thực. Hơn ai hết, Bác thấy rõ những bất công vô lí trong nhà tù Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch. Nhà tù này chính là nước Trung Hoa rộng lớn khi đó thu nhỏ. Bên cạnh đó, từ những sự việc nhỏ nhoi, tầm thường hằng ngày, với trí tuệ mẫn tiệp, Hồ Chí Minh rút ra được những khái quát, tìm ra qui luật của cuộc sống thông qua sự từng trải, sự chiêm nghiệm của chính bản thân mình. Vì vậy, một số câu thơ, bài thơ của Người có ý vị triết lí thâm trầm sâu sắc. Chẳng hạn, từ việc “Học đánh cờ”, Người rút ra tầm quan trọng của thời cơ đối với sự thành bại trong hoạt động của con người:
Lạc nước hai xe đành bỏ phí,
Gặp thời một tốt cũng thành công.
Hay, nhà thơ khẳng định bản chất lương thiện của con người và sự ảnh hưởng của hoàn cảnh giáo dục:
Ngủ thì ai cũng như lương thiện
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ, hiền.
Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn Phần nhiều do giáo dục mà nên
Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng có những chiêm nghiệm đúng đắn về “Đường đời hiểm trở”, về sự phức tạp khó khăn trong cuộc sống xã hội:
Núi cao gặp hổ mà vô sự
Đường phẳng gặp người bị tống lao
Tuy nhiên, những nhận xét khái quát về cuộc đời, về con người của Hồ Chí Minh không bao giờ có ý vị yếm thế hay hư vô mà Người luôn hướng con người tới những hành động thiết thực để cải tạo con người, cải tạo hoàn cảnh. Điều đó chứng tỏ lòng tin vững chắc của nhà thơ vào bản chất, tốt đẹp của con người. Khi Bác khẳng định “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn - Phần nhiều do giáo dục mà nên” tức là Người đặt ra vấn đề giáo dục và tin tưởng ở kết quả xây dựng lực lượng cách mạng về sau. Những ai đã được sống gần Hồ Chí Minh đều nhận thấy sức mạnh cảm hóa của Bác. Niềm tin vào con người là hạt nhân quan trọng tạo nên niềm tin vào sự nghiệp cách mạng ở Hồ Chí Minh. Qua bài Đi đường, Bác thể hiện khá tập trung ý tưởng chinh phục khó khăn, hướng tới cuộc sống, hướng tới tương lai:
Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao chập chùng.
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non
Ngay trong cảnh gian khổ, khó khăn, Người vẫn nhìn thấy ánh sáng của tương lai tươi sáng:
Trong ngục giờ đây còn tối mịt
Ánh hồng trước mặt đã bừng soi.
Hồ Chí Minh luôn có cái nhìn biện chứng về sự vận động của đời sống của tự nhiên. Bởi vậy, thơ Người viết trong tù vẫn khiến cho người đọc thêm niềm tin vào cuộc sống, vào con người. Có đêm gà vừa gáy lần đầu tiên, trời tối, gió rét, Hồ Chí Minh đã phải chuyển lao. Nhưng bỗng chốc, dưới con mắt của người tù thi sĩ, cảnh vật liền biến đổi, ánh sáng bình minh ấm áp rực rỡ xua tan bóng tối, người tù bỗng trở thành thi nhân nồng nàn thi hứng… như trong bài thơ Giải đi sớm. Đây là bài thơ quen thuộc với nhiều người
Dẫu sao, vẫn sẽ là một thiếu sót rất lớn, nếu như viết về “bức chân dung tự họa” nói trên, ta không đề cập tới lòng nhân ái bao la, sâu sắc của Bác Hồ.
Trong bài Bác ơi! Tố Hữu đã viết được những câu thơ rất hay, rất đúng về con người Chủ tịch Hồ Chí Minh
Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người!
Trước hết trái tim ấy dành cho những người lao khổ dù họ là người Trung Quốc hay người Việt Nam
Nhà thơ dễ dàng quên những đau đớn khổ sở mà mình phải chịu, nhanh chóng đồng cảm sâu sắc và phát hiện ra những bất hạnh, đau khổ của những người xung quanh để thông cảm, chia sẻ với họ. Bác thương cảm Vợ người bạn tù đến thăm chồng, đối với Cháu bé trong nhà lao Tân Dương, hay đối với Một người tù cờ bạc vừa chết… Chỉ cần nghe “Người bạn tù thổi sáo”, Bác chẳng những thấu hiểu nỗi lòng nhớ quê của anh ta, mà còn hình dung thấy ở chốn chân trời xa xôi kia có một phụ nữ bước lên một tầng lầu để ngóng trông chồng:
Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu
Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu.
Muôn đậm quan hà khôn xiết nỗi,
Lên lầu ai đó ngóng trông nhau.
Trong tù Bác gọi những người cùng bị giam là “nạn hữu” (bạn tù) và Người cùng chia sẻ với họ những nỗi niềm sâu kín hay cùng đùa vui trong cảnh ghẻ lở khổ sở:
Mặc gấm bạn tù đều khách quý .
Gảy đàn trong ngục thảy tri âm.
Nhìn bao quát, tình yêu thương của Hồ Chí Minh mang tầm nhân loại
rộng lớn. Điều này tạo nên giá trị đặc biệt của tập thơ
Ở con người tác giả, rõ ràng có sự thống nhất giữa các mặt đối lập. Bên cạnh sự nhạy cảm tinh tế, người đọc có thể nhận thấy ý chí sắt son, nghị lực phi thường, lớn lao, bền bỉ. Chất “tình” và chất “thép” được kết hợp một cách tự nhiên, hài hòa trong tập Nhật kí trong tù. Đúng như cách đây mấy chục năm nhà thơ Hoàng Trung Thông đã nhận xét về thơ Hồ Chí Minh: “Vần thơ của Bác vần thơ thép”. “Thép” chính là tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất. Nhưng điều đáng quý là chất “thép” ấy được toát ra một cách tự nhiên, bình dị trong tư thế ung dung, tự tại của một con người làm chủ mọi tình huống. Có lần chuyển lao, Bác bị bọn lính xích chân vào thuyền , nhưng Người vẫn phát hiện cuộc sống đông đúc vui tươi của làng xóm bên sông, của những thuyền câu nhẹ lướt. Có lần, sau suốt một ngày đi xa vất vả, chiều xuống, Bác tới một xóm núi, gây ấn tượng đối với Người không phải là nỗi gian truân đã qua hoặc sáp tới mà lại chính là cảnh “Cô em xóm núi xayn ngô tối – xay hết lò than đã rực hồng”… Chất “thép” thể hiện đặc biệt rõ ở sự kiên định vững vàng, sẵn sàng chiến thắng mọi gian lao thử thách khắc nghiệt. Đối với Bác, mọi gian lao đều được coi như là những sự thử thách để rèn giũa con người thêm vững vàng kiên định. “Nghe tiếng giã gạo”, Hồ Chí Minh làm thơ như để khuyên mình: ‘
Gạo đem vào giã bao đau đớn,
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông.
Sống ở trên đời người cũng vậy,
Gian lao rèn luyện mới thành công.
Ý thơ này, Người vẫn hằng tâm niệm. Bởi vậy, ngay ở lời đề từ của tập thơ Bác đã khẳng định “Muốn nên sự nghiệp lớn – Tinh thần càng phải cao”. Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến sự rèn luyện tu dưỡng của con người và Bác là một tấm gương sáng về tu dưỡng và rèn luyện này.
Nhật kí trong tù là một tập thơ có giá trị về nhiều phương diện. Sức hấp dẫn của tập thơ này trước hết đúng là sức hấp dẫn trong bức “chân dung tự họa con người tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Hay nói cách khác , sức hấp dẫn của tập thơ chính là sức hấp dẫn của “chất người cộng sản Hồ Chí Minh” (Xuân Diệu) … Là những cách nói khác nhau, nhưng tất cả đều nhằm khẳng định tác giả của Nhật kí trong tù là một nhân vật kiệt xuất, “đại trí”, “đại nhân” và “đại dũng”. Tập thơ thể hiện sinh động nhân vật kiệt xuất này.
Cần tập trung làm nổi bật thế giới tinh thần của tác giả, chẳng hạn như trí tuệ, tình cảm tư tưởng…
Có thế trình bày theo nhiều cách, sử dụng những hệ thống khái niệm khác nhau: trí, nhân, dũng… nhưng phải phải nhất quán.
Phân tích những ý thơ hoặc những câu thơ tiêu biểu để làm nổi bật nội dung. Tránh sự liệt kê dẫn chứng một cách dàn trải.