Hướng dẫn soạn bài Qua Đèo Ngang

Phạm Ngọc Diễm

các bạn ơi giúp mình phân tích bài 'Qua Đèo Ngang' phân tích như viết văn phát biểu cảm nghĩ về 1 tác phẩm văn học nhưng mà đừng có viết thành bài văn {Đừng chép trên mạng nhan} giúp mình với mình đang cần gấp

Linh Phương
2 tháng 1 2017 lúc 19:14

I. Mở bài:
Họ tên là Nguyễn Thị Hinh sống vào giữa thế kỉ 19. Quê ở Nghi Tàm, Thăng Long; sinh trưởng trong một gia đình quyền quý cuối thời Lê – Trịnh. Chồng bà làm quan huyện Thanh Quan (tỉnh Thái Bình) nên người đời ái mộ gọi bà là Bà Huyện Thanh Quan.
Bà hay chữ, giỏi thơ; hiện còn lại sáu bài thơ Nôm: “Qua Đèo Ngang”, “Chiều hôm nhớ nhà”, “Thăng Long thành hoài cổ’”,… Thơ của bà trang trọng du dương, rất điêu luyện. Bà hay nói đến hoàng hôn và li biệt. Thơ bà thấm một nỗi buồn man mác, cô đơn.
Bài thơ “Qua Đèo Ngang” có thể được nữ sĩ viết vào khi trên đường thiên lí vào kinh đô Phú Xuân làm nữ quan “Cung trung giáo tập”. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, luật trắc vần bằng. “Qua Đèo Ngang” tả cảnh Đèo Ngang lúc ngày tàn và nói lên nỗi buồn nhớ, cô đơn của người lữ khách:

“Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
……….
Một mảnh tình riêng ta với ta”.

II. Thân bài:
Phần đề:
– Đèo Ngang là địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh – Quảng Bình. Dãy Hoành Sơn chạy dài ra tận bờ biển mà tạo thành con đèo “đệ nhất hùng quan” của Đại Việt.
– Câu phá đề nói lên thời điểm khi nữ sĩ vừa “bước tới” chân đèo. Đó là lúc mặt trời đã gác núi, lúc “bóng xế tà”. Thời khắc ấy thường rất buồn, nhất là đối với khách li hương. Chữ “tà” để gieo vần, là trầm bình thanh (thanh bằng có dấu huyền) cũng tạo nên âm điệu trầm buồn như kéo dài mãi ra.
– Câu thừa đề gợi tả cảnh quan con đèo. Cỏ, hoa, lá, đá “chen” nhau mà tồn tại. Cảnh cằn cỗi hoang vu. Điệp ngữ “chen” tô đậm nét cằn cỗi, hoang vu ấy. Chữ “lá” vần với chữ “đá” tạo nên một vần lưng đặc sắc, hòa điệu với vần chân: “tà – hoa”, âm điệu thơ trầm bổng, du dương. Hoa được nói tới là hoa rừng, hoa mua, hoa sim tím, một “màu hoang biền biệt” (thơ Hữu Loan).
Phần thực:
– Cuộc sống và con người nơi Đèo Ngang hơn 150 năm về trước. Cành vật đối nhau: có núi và sông, có mấy chú tiều phu “lom khom” gánh củi và mấy nhà chợ “lác đác” thưa thớt. Chợ miền núi, chợ chiều nên trống trơ, hoang vắng.
– Cặp từ láy “lom khom” và “lác đác” đứng đầu câu thơ đảo ngữ vừa tạo nên ấn tượng sâu sắc về cuộc sống hoang vắng, nghèo nàn nơi Đèo Ngang. Nữ sĩ càng cảm thấy mình bơ vơ, trơ trọi và buồn khôn xiết kể.
Phần luận:
– Trời tối dần, chim rừng cất tiếng gọi đàn: con cuốc cuốc và cái gia gia. Khúc nhạc rừng cất lên, lúc hoàng hôn rất buồn, gợi lên bao nỗi niềm đối với li khách vừa “nhớ nước, đau lòng” vừa “thương nhà mỏi miệng”. Tiếng chim cũng là tiếng lòng. Bút pháp tả cảnh ngụ tình rất đặc sắc.
– Phép đối và đảo ngữ vừa tạo hình vừa tạo nhạc; vần thơ rung lên làm xúc động, làm thổn thức hồn người.
Phần kết:
– Bốn chữ “dừng chân đứng lại” gợi tả một cử chỉ, một hành động, một tâm trạng ngơ ngác, bồi hồi. Đứng lại để nhìn con đèo; dừng chân để nghe tiếng chim gọi đàn. Giữa mênh mông “trời non nước”, lữ khách chỉ thấy mình trơ trọi “ta với ta”. Chút “tình riêng” như tan ra thành “mảnh”, buồn đau tê tái. Chữ “một” đứng đầu câu thơ cuối bài đã đặc tả nỗi buồn lẻ loi, cô đơn của tác giả khi một mình đứng trên đỉnh Đèo Ngang lúc ngày tàn.
– Hình tượng thơ được đặt trong thế tương phản độc đáo. Cái mênh mông, bao la, vô hạn của “trời non nước’’ tương phản cái “ta” nhỏ bé, lẻ loi và đơn côi. Nỗi nhớ quê nhớ nhà dâng lên trong lòng li khách không thể nào kể xiết.
– Trong bài thơ ‘‘Chiều hôm nhớ nhà”, hai câu kết cũng đã cực tả nỗi buồn nhớ da diết, nhớ quê, nhớ nhà, nhớ người thân thương của người lữ khách:

“Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kế nỗi hàn ôn”

III. Kết bài
– “Qua Đèo Ngang” là bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật rất đặc sắc. Vần thơ, niêm luật, bố cục và phép đối chặt chẽ chứng tỏ một bút pháp nghệ thuật độc đáo, điêu luyện. Hình tượng thơ mang tính ước lệ tượng trưng nhưng rất biểu cảm, nhất là âm điệu, nhạc điệu bổng trầm, du dương như cuốn hút hồn người.
– Cảnh Đèo Ngang, tâm tình nữ sĩ – khách li hương như chan hòa, như cộng hưởng. Tình yêu thiên nhiên, nỗi nhớ quê nhớ nhà, nỗi buồn cô đơn của li khách đã kết đọng thành vẻ đẹp nhân văn của bài thơ tuyệt bút “Qua Đèo Ngang”.

Bình luận (0)
Carolina Trương
2 tháng 1 2017 lúc 22:33

Phân tích bài thớ " Qua đèo ngang" của Bà huyện Thanh Quan :

Trong nền văn học trung đại Việt Nam, bên cạnh những nhà thơ nam tiêu biểu thì vẫn xuất hiện những nhà văn nữ đầy tài năng, mang đến văn chương một hồn thơ mới, đầy độc đáo, mang đậm dấu ấn, phong cách của những người phụ nữ nói chung, điều mà trước đó chưa từng xuất hiện trong văn học. Một trong những gương mặt nữ sĩ tiêu biểu đó, không thể không kể đến Bà Huyện Thanh Quan. Để hiểu hơn về phong cách thơ văn cũng như những tư tưởng của đạo của bà, ta đi tìm hiểu tác phẩm thơ “Qua đèo ngang”.

“Qua đèo ngang” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Bà Huyện Thanh Quan, bài thơ được sáng tác trong một hoàn cảnh khá đặc biệt, đó là khi tác giả vào Huế để nhận chức, phải xa quê hương, gia đình nên đã thể hiện khá rõ nét trong tác phẩm này tình yêu quê hương đất nước; cùng với đó là bức tranh thiên nhiên hoang sơ, kì vĩ mà không kém phần tươi đẹp, nơi mà nhà thơ dừng chân nghỉ lấy sức cho cuộc hành trình dài. Trước hết, mở đầu bức tranh thơ, nhà thơ đã gợi mở ra khung cảnh, nơi nhà thơ nghỉ dừng chân:

“Bước đến Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa”.

Không gian được Bà Huyện Thanh Quan nhắc đến ở đây chính là không gian của buổi chiều tà, khi ánh sáng dần tắt, nhường chỗ lại cho màn đêm bao phủ. Đây cũng là lúc mà nhà thơ nghỉ dừng chân trong cuộc hành trình dài. Không gian chiều tà thường là không gian của thương nhớ, bởi đây là khoảng thời gian gợi nhắc người ta mạnh mẽ nhất về quê nhà, đánh động vào tình cảm sâu thẳm nhưng yếu mềm nhất trong mỗi con người. Vì vậy mà trong các tác phẩm văn chương xưa nay, nhắc đến chiều tà thì người ta thường liên tưởng ngay đến nỗi nhớ nhà, nhớ quê.

Ở đây, Bà Huyện Thanh Quan cũng vậy, đứng ở nơi rừng núi hoang vu, trong khung cảnh chiều tà thì không tránh khỏi cảm giác mơ hồ buồn. “Cỏ cây chen đá lá chen hoa” một hình ảnh đầy độc đáo, đặc biệt. Nó gợi cho người đọc liên tưởng đến sự đông đúc, hội tụ giao thoa của những sự vật trong tự nhiên, trên những phiến đá quần tụ những hoa, những lá, sự um tùm, tươi tốt này mở ra không gian hoang sơ của núi rừng. Nhưng ở một góc độ nào đó, ta lại thấy sự tươi tốt, quần tụ của cảnh vật lại mơ hồ gợi nhắc con người tới tình cảnh lẻ loi, cô đơn của thực tại, khi một mình phải rời quê hương, người thân bạn bè để tha phương nơi đất khách.

“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Nếu như không gian của rừng núi, nơi nhà thơ nghỉ chân gợi ra cái mơ hồ buồn, thì khi chứng kiến khung cảnh làng quê, con người ở xa xa kia càng làm đậm đặc, rõ nét hơn nỗi nhớ ấy. “Lom khom dưới núi tiều vài chú”, phía dưới chân núi là hình ảnh của những người tiều phu đang vội vã trở về nhà khi mặt trời dần lặn, một ngày sắp kết thúc. Hình ảnh “lom khom” gợi cho ta hình ảnh của những người tiều phu đang không lưng gồng trên vai mình những gánh củi nặng, thành quả của một ngày dài lao động. Tuy điểm nhìn khá xa, nhà thơ cũng không nhìn rõ nhưng qua câu thơ người đọc lại cảm nhận được cái gấp gáp của những bước chân, niềm vui nho nhỏ ẩn hiện đâu đó trên khuôn mặt của những người tiều phu, vì họ đã kết thúc một ngày lao động mệt mỏi, và giờ đây họ được trở về nhà xum vầy bên mái ấm của mình.

“Lác đác bên sông chợ mấy nhà”, khi nhà thơ hướng tầm mắt ra phía xa kia, hình ảnh mà nhà thơ đón nhận, đó là hình ảnh của những ngôi nhà thấp thoáng. Hình ảnh con người, sự sống ẩn hiện đâu đó xung quanh đây gợi ra cái ấm áp của tình thân,niềm vui của sự xum vầy, đối nghịch với tình cảnh hiện tại của nhà thơ, đơn độc nơi đất khách với một nỗi niềm da diết, khắc khoải:

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Qua những khung cảnh thiên nhiên,khung cảnh của cuộc sống thường nhật đã gợi ra nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết trong lòng Bà Huyện Thanh Quan. Nỗi nhớ ấy đã được nhà thơ khái quát qua hai câu thơ “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc”, trước hết, đối tượng của nỗi nhớ ấy chính là nỗi nhớ, tình yêu dành cho đất nước. Đây là khoảng thời gian đầy đặc biệt, đất nước loạn li, chia cắt, vì vậy mà ta có thể phần nào hiểu được nỗi niềm thương nhớ của Bà Huyện Thanh Quan về một đất nước hòa bình,thống nhất, yên vui. “Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”,từ nỗi nhớ da diết đến đau thắt lòng khi nghĩ về đất nước thì khi nhìn lại, nhà thơ lại ôm nỗi niềm đầy tính chất cá nhân, đó chính là nỗi nhớ nhà.

“Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”.

Dù sầu muộn với những nguồn cảm xúc, suy tư phức tạp, nhưng với tâm hồn đầy tinh tế, nhạy cảm của người thi sĩ thì Bà Huyện Thanh Quan vẫn có thể cảm nhận được vẻ đẹp của non sông gấm vóc của quê hương, nơi tác giả dừng chân đây tuy có vẻ hoang sơ, tịch mịch nhưng chính trong cái tĩnh mịch ấy lại càng làm tôn lên vẻ đẹp hùng vĩ, bát ngát của không gian núi rừng. Và những phiền muộn, những nỗi nhớ da diết đến đứt lòng ấy Bà Huyện Thanh Quan không thể dãi bày cùng ai mà chỉ có thể ôm ấp suy tư trong chính mình, giữ riêng cho mình “Một mảnh tình riêng ta với ta”

Bài thơ “Qua đèo ngang” của Bà Huyện Thanh Quan vừa gợi ra một bức tranh rừng núi hoang sơ, hùng vĩ; vừa gợi ra khung cảnh cuộc sống thường nhật đơn sơ, giản dị nhưng quá đỗi ấm áp. Nhưng cái nền khung cảnh thiên nhiên, cuộc sống ấy chính là cơ sở để người thi sĩ bộc lộ những nỗi niềm, tình cảm riêng tư, đó là tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu da diết của người xa quê, đơn độc nơi đất khách quê người.

Chúc cậu học tốt !

Bình luận (0)
Thảo Phương
3 tháng 1 2017 lúc 11:41

Gợi ý:

- Bà Huyện Thanh Quan - một nữ sĩ tài danh hiếm có, tác phẩm của bà hiện còn lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó bài “Qua Đèo Ngang” nổi tiếng và rất quen thuộc với bạn đọc.

- Thể thơ thất ngôn bát cú Đương luật, ngôn ngữ điêu luyện sâu sắc và trang trọng đã khắc họa nên một bức tranh Đèo Ngang trong buổi chiều tà.

- Mở đầu bài thơ là thiên nhiên vào thời điểm xế chiều: nắng nhạt và sắp tắt. Đây cũng là thời điểm mà con người dễ bộc lộ cảm xúc nhất.

- Những từ láy “lom khom”, “lác đác” giàu sức gợi hình, kết hợp với phép đối giữa hai câu càng làm tăng thêm sức gợi tả giúp cho người đọc cảm nhận cảnh Đèo Ngang thật hoang vắng, hiu quạnh.

- Bằng lối chơi chữ trữ tình “quốc – quốc”, “gia – gia” kết hợp với nghệ thuật nhân hoá, tác giả thể hiện nỗi lòng, tâm sự của chính mình: nhớ nước, thương nhà.

- Phải chăng nỗi buồn sâu sắc nhẹ nhàng ở đầu bài thơ đã trở nên mênh mông, nặng trĩu vì nhớ thương quá khứ, vì phải xa gia đình, quê quán; một thân một mình ở nơi xa lạ hoang vu.

- Đối mặt với trời, non, nước bao la hùng vĩ, nhà thơ lại càng thấy mình nhỏ bé hơn bao giờ hết, cảnh càng rộng lớn bao nhiêu thì “mảnh tình riêng” càng nặng nề khép kín bấy nhiêu.

- Cụm từ “ta với ta” ở cuối câu thơ nói lên nỗi cô đơn gần như tuyệt đối của tác giả - chỉ có mình mình đối diện với tâm hồn mình.

- Bài thơ đẹp, phảng phất buồn làm người đọc thấu hiểu và cảm thông tấm lòng đau đáu, tha thiết của nữ sĩ đối với quê hương, đất nước.

Bình luận (0)
Nguyễn Thị Phương Anh
5 tháng 1 2017 lúc 7:21

hihi

Bình luận (0)

Các câu hỏi tương tự
Secret
Xem chi tiết
Hiền Thương
Xem chi tiết
Nguyễn Thị Thanh Thảo
Xem chi tiết
Tòng Thị Ngọc Lan
Xem chi tiết
Đỗ Hoàng Trí
Xem chi tiết
Khoi My Tran
Xem chi tiết
Võ Phạm Gia Bảo
Xem chi tiết
Nguyên Thị Nami
Xem chi tiết
dung
Xem chi tiết