Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Nghệ An , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 1
Số lượng câu trả lời 17
Điểm GP 1
Điểm SP 3

Người theo dõi (1)

Đang theo dõi (37)

JiHoon Oppa
Thảo Phương
_silverlining
Thời Sênh

Câu trả lời:

Tình thương là một phẩm chất, một đức tính quý báu của con người. Từ ngàn xưa, nhân loại đã lấy tình thương làm cơ sở để xây dựng cộng đồng. Tình thương gắn kết mọi người lại thành xã hội, nhỏ là làng xóm, lớn là đất nước. Tình thương là sức mạnh, là cội nguồn, là mục đích sống của con người. Nếu không có tình thương, con người sẽ sống ra sao? Để lí giải điều đó, một nhà văn Nga đã nói: "Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực, mà là nơi không có tình thương".

Thật vậy, Trên Trái đất có hai nơi lạnh nhất, đó là Bắc Cực và Nam Cực quanh năm băng giá, tuyết phủ, gió gào. Thiên nhiên hoang vu, thời tiết khắc nghiệt gây nhiều trở ngại cho cuộc sống của con người. Chỉ có rất ít động vật có sức chịu đựng cao mới chống chọi được cái lạnh ghê gớm đó. Còn đối với các nhà thám hiểm, các nhà khoa học nghiên cứu Bắc Cực thì cái lạnh cắt da cắt thịt là thử thách cam go mà họ phải có nghị lực, ý chí mãnh liệt mới vượt qua được.

Tuy vậy, cái lạnh tê buốt của Bắc Cực cũng không đáng sợ bằng cái "lạnh" của nơi không có tình thương. Nói một cách khác, điều đáng sợ nhất là khi trong trái tim không còn hơi ấm của tình thương, nghĩa là không còn cảm xúc, không rung động trước niềm vui hay nỗi đau của người khác. Con người sống không có tình thương sẽ thờ ơ trước vẻ đẹp của đất trời, sẽ hững hờ trước sự sôi động của cuộc sống. Họ dửng dưng, vô cảm trước sự việc xảy ra xung quanh. Người không có tình thương thường có lối sống ích kỉ, thu mình lại trong vỏ ốc. Triết lí sống của họ là: "Mũ ni che tai" , "đèn nhà ai nấy rạng", "an phận thủ thường". Họ tự tách mình ra khỏi cộng đồng, vì thế mà cuộc sống của họ tẻ nhạt.

Đối với những người sống vị kỉ, xã hội luôn quan tâm nhắc nhở và giáo dục họ. Người xưa từng khuyên nhủ: "Ăn một mình đau tức, làm một mình cực thân". Ca dao đã khơi dậy tình thương yêu bằng câu: " Thương người như thể thương thân"; "Sông có khúc, người có lúc"; "Đông tay vỗ nên kêu"; "Không ai nắm tay suốt ngày tới tối". Trong văn học cũng có nhiều tác phẩm phê phán những người không có "tình thương". Mẹ con mụ dì ghẻ trong truyện cổ tích Tấm Cám đang tâm đày đọa và giết chết cô Tấm hiền lành để tranh quyền lợi. Bá Kiến trong tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao cũng là một con người sống không có tình thương. Hắn là đại diện cho thế lực phong kiến thực dân chà đạp quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc của con người. Bên cạnh việc phê phán những kẻ sống thiếu "tình thương", văn học cũng ca ngợi, biểu dương những tấm lòng vàng. Bà cụ hàng nước trong truyện cổ tích Tấm Cám đã cưu mang cô Tấm. Chàng Thạch Sanh trong truyện cùng tên cũng hết lòng vị tha đối với Lý Thông- kẻ đã nhiều lần hãm hại chàng. Nguyễn Du xót xa thương cảm, đau đớn thốt lên lời thơ đứt ruột khi Thúy Kiều bị Tú Bà tra tấn: "Thịt da ai cũng là người, lòng nào hồng rụng thắm rời chẳng đau!". Lục Vân Tiên với quan niệm của người quân tử: "Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha" đã cứu mạng Kiều Nguyệt Nga bằng tấm lòng vị nghĩa vô tư "Làm ơn há dễ trông người trả ơn".

Trong cuộc sống, cái tốt, cái xấu song song tồn tại, nhưng xu thế chung là bao giờ cái thiện cũng chiến thắng cái ác. Người tốt sẽ cảm hóa, thuyết phục được người xấu. Biện pháp giáo dục hiệu quả nhất là tác động vào "tình thương" , vào thiên lương của mỗi người.

Con người muốn sống con ơi!
Phải yêu đồng chí, yêu người anh em.
(Tiếng ru - Tố Hữu)

Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường thì sự phân biệt đẳng cấp, phân biệt giàu nghèo là điều không thể tránh khỏi, không thể phủ nhận. Nhưng những người giàu có cần thương yêu, chia sẻ, giúp đỡ người nghèo khổ. Những người khỏe mạnh, thông minh cần giúp đỡ, cưu mang những người yếu ớt, cơ nhỡ với tinh thần : "Lá lành đùm lá rách"; "Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ"; "Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước phải thương nhau cùng.". Cả xã hội cần mở rộng tấm lòng nhân ái, giúp sức hỗ trợ, đùm bọc bà con bị thiên tai, bão lụt, hỏa hoạn, sẵn lòng giúp đỡ những người không may bị bệnh hiểm nghèo...

Câu nói của nhà văn Nga ở một chừng mực nhất định nào đó có thể coi là phương châm sống đúng đắn. Thông điệp mà nhà văn gửi gắm đến mọi người là xin đừng vô cảm trước nỗi đau của đồng loại. Hãy chung tay xây dựng một mái ấm tràn đầy "tình thương" giai cấp, dân tộc và nhân loại. Sự chia sẻ và liên kết, sự nồng ấm của "tình thương' sẽ làm cho băng giá của thói ích kỉ tan chảy, mỗi trái tim sẽ rạo rực tình yêu và sức sống.hihi

Câu trả lời:

Nguyễn Du không chỉ xuất sắc trong nghệ thuật miêu tả chân dung nhân vật mà còn là người có biệt tài miêu tả thiên nhiên, ngụ tâm tình, tình cảm của con người. Mỗi bức tranh dưới đôi bàn tay Nguyễn Du luôn luôn thực hiện hai chức năng chính: thể hiện ngoại cảnh và thể hiện tâm trạng. Tám câu thơ cuối trong bài "Kiều ở lầu Ngưng Bích" đã cho thấy rõ biệt tài này của ông.

Sau khi bị lừa bán vào lầu xanh, Kiều sống trong đau đớn, ê chề, với bản tính là con người trọng nhân phẩm, Kiều đã tìm đến cái chết để giải thoát nhưng không thành công. Thúy Kiều bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, chờ đến ngày thực hiện âm mưu mới. Những ngày ở lầu Ngưng Bích nàng sống trong đau đớn, tủi hổ, cô đơn, tuyệt vọng đến cùng cực.

Trong nỗi cô đơn, dường như ai cũng một lòng hướng về gia đình. Người con gái trong ca dao, dù lấy chồng, nhưng trong những khoảnh khắc ngày tàn vẫn tha thiết nhớ về quê mẹ:

Chiều về ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều

Huống chi là nàng Kiều, thân phận nổi trôi, bán mình cứu gia đình, thì nỗi nhớ gia đình lại càng da diết hơn bao giờ hết:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.

Không gian mênh mông của cửa bể kết hợp với hình ảnh thuyền thấp thoáng phía xa gợi lên không gian rợn ngợp, hoang vắng. Cánh buồm dường như trở nên nhỏ bé hơn trong không gian rộng ớn ấy. Thân phận nàng cũng chẳng khác gì cánh buồm kia, lênh đênh, nhỏ nhoi giữa cuộc đời bất định. Đồng thời ông cũng rất khéo léo lựa chọn thời gian cho nỗi nhớ, ấy là "chiều hôm". Trong văn học không gian buổi chiều thường gợi ra nỗi buồn man mác, ở đây trong hoàn cảnh của Kiều nỗi buồn ấy gắn với khát khao được sum họp, đoàn tụ, được trở về bên quê hương, gia đình.

Sau nỗi buồn tha hương, xa xứ, nàng nghĩ về thân phận mình mà lại càng đau lòng hơn: Buồn trông ngọn nước mới sa/ Hoa trôi man mác biết là về đâu? Hình ảnh ẩn dụ "hoa trôi" là biểu trưng cho thân phận của nàng Kiều. Ngọn nước mới sa kia có sức mạnh ghê gớm, là những giông bão, sóng gió trong cuộc đời đã vùi dập cuộc đời nàng. Những cánh hoa trôi man mác cũng như thân phận bé bỏng, mong manh của nàng. Cuộc đời nàng lênh đênh theo dòng đời, không biết tương lai sẽ đi đâu về đâu. Câu hỏi tu từ "biết là về đâu" như một lời than, một lời ai oán cho số phận bất hạnh. Qua đó càng nhấn mạnh hơn nữa thân phận chìm nổi, bèo bọt của nàng.

Trong tác phẩm của Nguyễn Du, sắc xanh đã xuất hiện nhiều lần, mỗi lần xuất hiện đều mang ý nghĩa khác nhau. Nếu như trong đoạn trích Cảnh ngày xuân, sắc xanh tượng trưng cho sự sống, tươi tốt mơn mởn, thì trong đoạn trích này màu xanh lại mang một ý nghĩa khác: Buồn trông nội cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Nội cỏ chỉ mang một màu tàn lụi héo úa. Sắc xanh cũng nối chân trời mặt đất với nhau nhưng lại nhạt nhòa, đơn sắc. Tất cả những màu sắc đó hòa điệu với nhau càng khiến cho tâm trạng Kiều trở nên ngao ngán, chán nản hơn. Kiều nhìn ra bốn phía để tìm được sự đồng điệu, tìm sự sẻ chia. Vậy mà, khung cảnh chỉ càng làm nàng thêm u sầu, ảo não. Quả thực "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Dưới con mắt tuyệt vọng của nàng, khung cảnh nào cũng chỉ thấm đầy nỗi buồn chán, bế tắc và vô vọng. Điều đó càng đẩy Kiều rơi vào sâu hơn hố sâu của sự sầu muộn, tuyệt vọng.

Hai câu thơ cuối cùng có thể coi là đỉnh cao của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, sự hoang mang, rợn ngợp của Kiều đã được tác giả tập trung bút lực thể hiện rõ nhất trong hai câu thơ này:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Cảnh cuối thiên nhiên hiện ra thật dữ dội, đó không chỉ còn là ngoại cảnh mà còn là tâm cảnh, Kiều tưởng mình không còn ngồi ở lầu Ngưng Bích mà đang ngồi giữa biển khơi mênh mông, xung quanh là sóng biển gào thét như muốn nhấn chìm nàng xuống biển. Đặc biệt từ láy "ầm ầm" vừa diễn tả một khung cảnh khủng khiếp vừa diễn tả tâm trạng buồn lo, hoảng loạn của Thúy Kiều. Nàng đang dự cảm những giông bão của số phận, rồi đây sẽ nổi lên và nhấn chìm cuộc đời mình.

Đoạn thơ đã vận dụng tài tình nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, mỗi cảnh là một tâm trạng, là một nỗi đau mà Kiều phải ghánh chịu. Không chỉ vậy Nguyễn Du còn có sự miêu tả theo trình tự hợp lí: từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt nhòa đến đậm nét, khắc họa nỗi buồn da diết của Kiều. Sử dụng hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, lớp từ láy giàu giá trị tạo hình và biểu cảm. Tất cả những yếu tố đó góp phần tạo nên thành công cho đoạn trích.

Tám câu thơ cuối, là một tuyệt tác của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Bằng những bức tranh đặc sắc, Nguyễn Du đã khắc họa được những trạng thái xúc cảm, nỗi cô đơn, lo âu, sợ hãi về tương lai đầy sóng gió của nàng Kiều. Không chỉ vậy, qua bức tranh ấy, Nguyễn Du cho thể hiện niềm cảm thương sâu sắc cho số phận nàng nói riêng và số phận người phụ nữ nói chung dưới chế độ phong kiến.

Câu trả lời:

5,Đặc điểm nổi bật của Vũ nương là về tính cách :
Tính cách nhân vật được thể hiện qua hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ với chồng và mẹ chồng. Mối quan hệ đó diễn ra ở những thời điểm khác nhau. Ở từng thời điểm ấy, nhân vật bộc lộ cá tính của mình.
2.Chuyện người con gái Nam Xương là truyện thứ 16 trong 20 truyện trong sách Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Truyện được viết bằng Hán tự, tên trong nguyên tác là "Nam Xương nữ tử thoại" 南昌女子傳,[1] Tiêu đề này của truyện được dịch sang tiếng Việt là "Chuyện người con gái Nam Xương". Truyện được coi là một áng "thiên cổ kì bút", viết về phẩm chất và số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, đồng thời lên án, tố cáo lễ giáo phong kiến hà khắc đã không cho người phụ nữ được bảo vệ mình.

1Vũ Thị Thiết gả cho Trương Sinh chưa được bao lâu thì phải tiễn chồng đi lính. Ở nhà, nàng một mình sinh con, lo ma chay cho mẹ chồng. Sau ba năm, Trương Sinh về, chàng hiểu lầm vợ ngoại tình liền đánh đuổi nàng đi, vì oan ức, nàng trẫm mình xuống bến Hoàng Giang. Sau khi nàng chết, Trương Sinh mới thấu nỗi oan của vợ nhưng đã muộn. Vũ Nương trẫm mình được Linh Phi cưu mang, làm tiên nữ dưới thủy cung, một ngày gặp được Phan Lang- người cùng quê liền đưa tín vật và nhờ gửi lời nhắn đến chồng. Trương Sinh nhận được lời nhắn, lập đàn trên bến Hoàng Giang, Vũ Nương hiện về một thoáng rồi biến mất mãi mãi.