Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp (1897-1914) đã làm cho kinh tế Việt Nam có nhiều biến đổi, từ sự biến đổi về kinh tế dẫn đến việc xã hội cũng có nhiều chuyển biến. Bên cạnh sự thay đổi của giai cấp địa chủ phong kiến và nông dân, thì đã xuất hiện thêm các tầng lớp mới, đó là công nhân, tư sản và tiểu tư sản.
Giai cấp địa chủ phong kiên số lượng ngày càng tăng, phân hóa thành 2 bộ phận, 1 bộ phận cấu kết chặt chẽ với thực dân Pháp áp bức bóc lột nhân dân, đây chính là đối tượng cách mạng cần đánh đổ; còn 1 bộ phận vừa và nhỏ nên có tinh thần yêu nước.
Giai cấp nông dân chiếm số lượng đông đảo, ngày càng bị bần cùng hóa và có sự phân hóa: 1 bộ phận làm tá điền cho địa chủ, 1 bộ phận ra thành thị kiếm ăn bằng các nghề phụ, 1 số bỏ đi phu cho các đồn điền pháp. Nhưng dù ở đâu thì cuộc sống của họ đều lâm vào cảnh đói khổ, không lối thoát nên họ sẵn sàng hưởng ứng tham gia vào các cuộc đấu tranh dành độc lập dân tộc, họ là lực lượng đông đảo của cách mạng.
Tầng lớp tư sản:Cùng với sự phát triển của đô thị, tầng lớp tư sản xuất hiện. Họ là các nhà thầu khoán, chủ xí nghiệm, chủ xưởng... Họ bị quyền lợi thực dân kìm hãm, tư bản pháp chèn ép nhưng do bị lệ thuộc, yếu ớt về kinh tế nên họ mong muốn có những thay đổi nhỏ để dễ bề sinh sống, họ chưa có thái độ hưởng ứng tham gia vào các cuộc vận động giải phóng dân tộc đầu thế kỉ XX.
Tầng lớp tiểu tư sàn: Xuất thân từ các chủ xưởng thủ công nhỏ, những viên chức cấp thấp, sinh viên, học sinh,... Cuộc sống của bọ bấp bênh, do có ý thức dân tộc nên tích cực tham gia vào các cuộc vận động cứu nước đầu thế kỉ XX.
Giai cấp công nhân:Công thương nghiệp phát triển dẫn đến sự hình thành đội ngũ công nhân ngày càng đông (khoảng 10 vạn người), phần lớn họ xuất thân từ nông dân làm việc trong các đồn điền, nhà máy, xí nghiệm..., họ bị thực dân, phong kiến và tư sản áp bức bóc lột nên có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ chống bọn chủ đòi tăng lương, giảm giờ làm