Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác

Nội dung lý thuyết

Các phiên bản khác

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả

- Phan Bội Châu (1867 – 1940) vốn tên là Phan Văn San, hiệu là Sào Nam.

- Ông sinh ra tại huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

- Ông nổi tiếng thông minh từ bé: Năm 6 tuổi học 3 ngày thuộc hết Tam Tự Kinh, 7 tuổi ông đã đọc hiểu sách Luận Ngữ, 13 tuổi ông thi đỗ đầu huyện.

- Năm 1885, ông tham gia lập đội Sĩ Tử Cần Vương chống Pháp.

- Năm 1900 ông đậu đầu Giải Nguyên nhưng không ra làm quan mà nung nấu con đường cứu nước theo tư tưởng mới.

- Năm 1922 ông định thực hiện chính sách cải tổ theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự góp ý của Nguyễn Aí Quốc.

- Năm 1925 ông bị thực dân Pháp bắt cóc và xử án tù chung thân.

- Ông là cây bút suất sắc của văn chương Cách mạng. Các tác phẩm chính: “Việt Nam vong quốc sử”, “Hải ngoại huyết thư”, “Ngục trung thư”, “Trùng Quang tâm sử”, “Phan Sào Nam văn tập”, “Phan Bội Châu niên biểu”,....

- Văn chương ông có hình thức cổ điển nhưng vẫn mới mẻ. Đó là vũ khí để tuyên truyền cổ động, thơ văn ông đã làm rung động biết bao con tim yêu nước.

2. Tác phẩm

a. Xuất xứ

- Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác là bài thơ Nôm nằm trong tác phẩm Ngục trung thư viết bằng chữ Hán, sáng tác năm 1914.

b. Hoàn cảnh sáng tác

Bài thơ được sáng tác khi Phan Bội Châu bị bọn phiệt tỉnh Quảng Đông bắt giam, trong hoàn cảnh ấy ông đã viết tác phẩm Ngục trung thư tập, “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác” là bài thơ Nôm nằm trong tập Ngục trung thư tập.

c. Bố cục: 4 phần

- Hai câu đề: Khẳng định tinh thần bất khuất phi thường.

- Hai câu thực: Chiêm nghiệm về cuộc đời sóng gió.

- Hai câu luận: Hình tượng bậc anh tài có tài năng, chí khí.

- Hai câu kết: sự bền chí, vững lòng của anh hùng.

@218895@@212575@

II. Đọc - hiểu văn bản

1. Hai câu đầu

- Hào kiệt, phong lưu: biểu hiện một phong thái thật đường hoàng, tự tin, ung dung, thanh thản, vừa ngang tàn, vừa bất khuất, lại vừa hào hoa tài tử. 

- Họ rơi vào vòng ngục từ mà cứ như người chủ động nghỉ chân ở một nơi nào đó trên chặng đường bôn tẩu dài dặc. Mà thực chất đâu có phải như vậy. Chính tác giả đã kể lại rằng mình bị áp giải đi "nào xiềng tay, nào trói chặt", vào ngục tù lại bị giam "chung một chỗ với bọn tù xử tử", chứ đâu được đãi như khách.

- Chỉ có điều bậc anh hùng không bao giờ chịu cúi đầu khuất phục hoàn cảnh đè bẹp mình, họ đứng cao hơn mọi sự cùm kẹp, đày đọa kẻ thù, cảm thấy mình hoàn toàn tự do, thanh thản về mặt tinh thần. Cho nên nói về một biến cố hiểm nghèo có quan hệ đến sự sống cái chết của mình mà Phan Bội Châu vẫn có giọng điệu vui đùa như vậy. Đây cũng là một giọng điệu quen thuộc trong lối thơ khẩu khí khá phổ biến ở văn thơ truyền thống. Đó là cách nói chí của người xưa.

2. Hai câu thơ 3 - 4

- Hai câu thơ có giọng điệu trầm bổng, diễn tả một nỗi đau cố nén, khác giọng cười đùa vui ở hai câu trên.

- Ý nghĩa hai câu thơ: Phan Bội Châu tự nói về cuộc đời bôn ba chiến đấu của mình, một cuộc đời sóng gió và đầy bất trắc. Từ năm 1905 cho đến khi bị bắt là gần mười năm. Mười năm lưu lạc, khi Nhật Bản, khi Trung Quốc, khi Xiêm La, mười năm không một mái ấm gia đình, cực khổ về vật chất, cay đắng về tinh thần, Phan Bội Châu đã từng nếm trải biết bao nhiêu ! Thêm vào đó còn sự săn đuổi của kẻ thù, dù ở đâu, ông cũng là đối tượng bị truy bắt của thực dân Pháp, nhất là khi đã đội trên đầu một bản án tử hình.

- Ý nghĩa lời tâm sự: Một người đã có thể coi thường hiểm nguy đến thế, một người ngay từ lúc dấn thân vào con đường hoạt động cách mạng đã tự nguyện  gắn cuộc đời mình với sự tồn vong của đất nước như Phan Bội Châu,"Non sông đã chết sống thêm nhục" (Lưu biệt khi xuất dương), con người ấy đâu cần than cho số phận cá nhân của mình! Tình cảnh một dân tộc mất nước lúc này cũng nào có khác gì! Gắn liền sóng gió của cuộc đời riêng với tình cảnh chunh của đất nước, của nhân dân, câu thơ giúp ta cảm nhận đầy đủ tầm vóc lớn lao phi thường của người tù yêu nước. Đó cũng là nỗi đau lớn lao trong tâm hồn bậc anh hùng.

3. Câu thơ 5 - 6

- Đây là khẩu khí của bậc anh hùng, hào kiệt, cho dù có ở tình trạng bi kịch đến mức độ nào thì chí khí vẫn không dời đổi, vẫn một lòng theo đuổi sự nghiệp cứu nước , cứu đời (Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế), vẫn có thể ngạo nghễ cười trước mọi thủ đoạn khủng bố tàn bạo của kẻ thù (cười tan cuộc oán thù).

- Lối nói khoa trưởng thường được dùng nhiều ở bút pháp lãng mạn, đặc biệt là lãng mạn kiểu anh hùng ca, khiến con người dường như không còn là con người thật, con người nhỏ bé, binh thường trong vũ trụ nữa, mà từ tầm vóc đến năng lực tự nhiên và cả khẩu khí đều trở nên hết sức lớn lao, đến mức thần thánh. Có thể dẫn thêm một ví dụ về khát vọng của chàng thanh niên Phan Văn San khi đang còn nuôi chí lớn chờ thời cơ ở trong nước:

                                              Phùng xuân hội, may ra, ừ cũng dễ.

                                              Nắm địa cầu vừa một tí con con.

                                              Đạp toang hai cánh cfn khôn, 

                                              Đem xuân vẽ lại trong non nước nhà...

(Chơi xuân)

- Lối nói khoa trương thường tạo nên những hình tượng nghệ thuật gây ấn tượng mạnh, kích thích cao độ cảm xúc người đọc, tạo nên sức truyền cảm nghệ thuật lớn.

4. Hai câu thơ cuối

- Khẳng định tư thế hiên ngang của con người đứng cao hơn cái chết, khẳng định ý chí thép gang mà kẻ thù không thể nào bẻ gãy. Con người ấy còn sống là còn chiến đấu, còn tin tưởng vào sự nghiệp chính nghĩa của mình, vì thế mà không sợ bất kì một thử thách gian nan nào.

- Cách lặp từ "còn" ở giữa câu thơ buộc người đọc phải ngắt nhịp một cách mạnh mẽ, làm cho lời nói ở trên trở nên dõng dạc, dứt khoát, tăng ý khẳng định cho câu thơ.

@212670@@212765@

III. Tổng kết

1. Nghệ thuật

Bài thơ sử dụng thành công thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật với phép đối chặt chẽ, giọng thơ hào hùng có sức lôi cuốn, có sự vui đùa hóm hỉnh nhưng vẫn đầy hào khí anh hùng.

2. Nội dung

Phong thái ung dung, đường hoàng và khí phách kiên cường, bất khuất vượt lên trên cảnh tù ngục khốc liệt của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu.