Bài 30. Phong trào yêu nước chống Pháp từ đầu thế kỉ XX đến năm 1918

Nội dung lý thuyết

Các phiên bản khác

I. Phong trào yêu nước trước Chiến tranh thế giới thứ nhất

1. Phong trào Đông Du (1905 - 1909)

- Một số người yêu nước Việt Nam muốn dựa vào Nhật Bản để bạo động vũ trang giành độc lập. Vì vậy, họ lập Hội Duy Tân do Phan Bội Châu đứng đầu với mục đích lập ra một nước Việt Nam độc lập.

- Đầu năm 1905, Phan Bội Châu sang Nhật nhờ giúp đỡ khí giới và tiền bạc để đánh Pháp. Người Nhật chỉ hứa giúp đào tạo cán bộ cho cuộc bạo động vũ trang sau này. Hội Duy Tân phát động phong trào Đông Du.

- Tháng 9/1908, Pháp Nhật cấu kết với nhau, trục xuất những người yêu nước Việt Nam ra khỏi đất nước Nhật. Phong trào Đông Du tan rã, Hội Duy Tân ngừng hoạt động.

@922697@

 2. Đông Kinh nghĩa thục (1907)

- Tháng 3/1907, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Lê Đại, Vũ Hoành… mở Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội.

- Chương trình học gồm Địa lý, Lịch sử, Khoa học thường thức.

- Các nhà nho còn tổ chức bình văn, xuất bản sách báo nhằm bồi dưỡng, nâng cao lòng yêu nước truyền bá nội dung học tập và nếp sống mới.

- Lúc đầu trường hoạt động ở nội thành, sau đó mở rộng ra ngoại thành và các vùng lân cận.

- Tháng 11/1907, thực dân Pháp ra lệnh giải tán Đông Kinh nghĩa thục và bắt những người lãnh đạo.

- Đông Kinh nghĩa thục đã đạt được kết quả to lớn, đặc biệt trong việc cổ động cách mạng, phát triển văn hóa, ngôn ngữ dân tộc.

 

@925359@

3. Cuộc vận động Duy Tân và phong trào chống thuế ở Trung Kì (1908)

- Cuộc vận động Duy Tân ở Trung Kì do Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng… lãnh đạo.

- Hình thức hoạt động rất phong phú: mở trường học, diễn thuyết, cắt tóc ngắn, mặc áo ngắn, đả kích quan lại xấu, cổ động việc mở mang công thương nghiệp.

- Dưới ảnh hưởng của phong trào Duy Tân, một phong trào chống đi phu, chống sưu thuế nổ ra rầm rộ ở Trung Kì. Thực dân Pháp thẳng tay đàn áp bắt bớ, tù đày, xử tử nhiều nhà yêu nước.

@925440@

II. Phong trào yêu nước trong thời kì Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918)

1. Chính sách của thực dân Pháp ở Đông Dương trong thời chiến (đọc thêm)

2. Vụ mưu khởi nghĩa ở Huế (1916). Khởi nghĩa của binh lính và tù chính trị ở Thái Nguyên (1917)

a. Vụ mưu khởi nghĩa ở Huế (1916)

- Thái Phiên và Trần Cao Vân liên lạc với binh lính sắp bị đưa sang chiến trường Châu Âu đang tập trung ở Huế và mời vua Duy Tân tham gia khởi nghĩa.
- Kế hoạch khởi sự dự kiến vào đêm mùng 3 rạng sáng mùng 4/5/1916 tại Huế nhưng bị bại lộ. Các trại lính người Việt bị đóng cửa. Thái Phiên và Trần Cao Vân bị bắt và tử hình, vua Duy Tân bị đưa đi đày ở châu Phi.

@921425@

b. Khởi nghĩa của binh lính và tù chính trị ở Thái Nguyên (1917)

- Anh em binh lính do Trịnh Văn Cấn cầm đầu tiếp xúc với tù chính trị, trong đó có Lương Ngọc Quyến nên được giác ngộ và đã phối hợp với tù chính trị khởi nghĩa.

- Nghĩa quân giết chết tên giám binh người Pháp, phá nhà lao, thả tù chính trị chiếm các công sở và làm chủ tỉnh lị Thái Nguyên trong một tuần lễ. Khi viện binh Pháp kéo đến, quân Pháp từ trong đánh ra, ngoài đánh vào, nghĩa quân rút khỏi tỉnh lị, Lương Ngọc Quyến hy sinh.

- Nghĩa quân tiếp tục chiến đấu gần 5 tháng ở rừng núi vô cùng gian khổ. Đội Cấn bị thương đã tự sát, nêu cao ý chí bất khuất của nguời chỉ huy và nghĩa quân anh hùng.

3. Hoạt động của Nguyễn Tất Thành sau khi ra đi tìm đường cứu nước

- Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh nước nhà bị mất vào tay thực dân Pháp, nhiều cuộc khởi nghĩa và phong trào cách mạng nổ ra nhưng thất bại, Nguyễn Tất Thành rất khâm phục tinh thần yêu nước của các bậc tiền nhân nhưng không tán thành đường lối hoạt động của họ.

- Năm 1911, tại bến cảng Nhà Rồng, Người quyết định đi tìm đường cứu nước mới.

- Năm 1917, Nguyễn Tất Thành đến Pháp, tham gia hoạt động trong Hội những người Việt Nam yêu nước, viết báo, truyền đơn… tố cáo thực dân, tuyên tryền cho cách mạng Việt Nam. Sống và hoạt động trong phong trào công nhân Pháp, tiếp nhận ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, tư tưởng của Nguyễn Tất Thành dần dần biến chuyển.

@925524@