Bình ngô đại cáo được Nguyễn Trãi sáng tác năm 1428, khi quân ta giành thắng lợi trước quân Minh, dưới ngọn cờ lãnh đạo của nghĩa quân Lam Sơn và chủ tướng Lê Lợi. Sau thắng lợi, Lê Lợi đã lên ngôi hoàng đế và bắt tay vào xây dựng vương triều của mình. Việc đầu tiên sau khi lên ngôi, đó là truyền lệnh cho Nguyễn Trãi soạn thảo văn bản “Bình ngô đại cáo” để tuyên bố với toàn dân rằng cuộc khởi nghĩa gian nan cuối cùng cũng kết thúc thắng lợi, kể từ đây nhân dân sẽ bước vào một cuộc sống mới, tự do, độc lập. Bình ngô đại cáo là một áng văn chính luận xuất sắc, là một áng “thiên cổ hùng văn” của nền văn học dân tộc.
Trong “Bình ngô đại cáo” Nguyễn Trãi rất đề cao tư tưởng thân dân, theo ông, một quốc gia muốn trường tồn, thịnh vượng, thì yếu tố căn cốt nằm ở người dân. Người dân có thể đẩy thuyền nhưng cũng có thể lật thuyền. Vì vậy, ngay câu thơ đầu, Nguyễn Trãi đã đề cập đến tư tưởng thân dân vừa như khẳng định vai trò của dân, vừa như lời nhắc nhở tế nhị đến bậc quân vương, việc nhân nghĩa luôn luôn được dân chúng nhắc đến, và những người đứng đầu đất nước luôn luôn phải có trách nhiệm với dân với chúng, trước hết phải biết lo cho dân cho chúng, lo trừ đi bạo ngược để giữ cho đất nước ngày càng phát triển mạnh mẽ và có giá trị to lớn hơn, những người luôn luôn biết lo cho dân yêu dân như con, điều đó để lại cho dân tộc những điều có ý nghĩa mạnh mẽ nhất, khi mỗi chúng ta đều hưởng được một nền thái bình thịnh trị:
“Từng nghe
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Quốc gia muốn trường cửu thì phải “yên dân”, tức là phải chăm lo đến cuộc sống của người dân. Trách nhiệm của triều đình, của “quân điếu phạt” là phải “lo trừ bạo”, diệt trừ mọi mối đe dọa đến cuộc sống của người dân. Nền văn hiến của dân tộc Việt Nam luôn luôn được cải thiện và giữ gìn mỗi ngày. Trong các tác phẩm thơ ca, nó cũng nhấn mạnh điều đó, dân quốc đã có từ xưa đến nay, nền văn hiến cũng luôn luôn được giữ gìn và nâng cao trên nền mỗi ngày. Giá trị của nó để lại cho dân tộc ta cũng vô cùng có giá trị. Nền văn hiến của dân tộc đã khẳng định từ trước tới nay, nó luôn mang những giá trị vẻ vang cho dân tộc của mình, mỗi khi các giá trị đó được cải tạo là làm cho văn học nước nhà được củng cố và nâng cao lên mỗi ngày, những định giới của Việt Nam luôn luôn được cải thiện và nâng cao mỗi ngày, nó luôn trở thành một giá trị vô giá và để lại cho dân tộc Việt Nam những điều có ý nghĩa to lớn, khi những giới hạn biên giới đó đã được khẳng định từ trước tới nay, phong tục của hai miền cũng luôn luôn được phân định rõ ràng:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Đến những câu thơ tiếp theo, Nguyễn Trãi đã khẳng định ranh giới lãnh thổ bờ cõi, cùng với đó là sự tự hào về truyền thống văn hiến lâu đời của dân tộc “Đã xưng nền văn hiến đã lâu”. “Văn hiến”, “phong tục” là những dẫn chứng nhà thơ đưa ra để tăng thêm tính thuyết phục của lời khẳng định. Đại Việt là một quốc gia độc lập, có ranh giới, lãnh thổ riêng. Trên mảnh đất ấy, con người Đại Việt đã sinh sống, hình thành nên những phong tục, những nền văn hiến mang bản sắc của dân tộc mình. Các đời vua từ xưa đến nay, luôn luôn xưng nền độc lập, không có thể bỏ qua những quân thù mà phải sánh vai với cường quốc năm châu, cần phải tạo nên những giá trị có ý nghĩa và có tầm quan trọng đặc biệt cho đất nước của mình, dù có chênh lệch lực lượng đi chăng nữa thì chúng ta cần phải dốc hết lòng để bảo vệ cho đất nước của mình. Thời nào cũng luôn thấy xuất hiện những vị anh hùng của dân tộc điều đó tạo nên những giá trị có ý nghĩa và vẻ vang nhất, song mỗi người luôn luôn biết quyết tâm để bảo vệ đất nước và dân tộc của mình:
“Từ Triệu, Đinh, Lí,Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Nếu câu thơ trên nhà thơ khẳng định một cách rõ ràng về chủ quyền lãnh thổ cùng với niềm tự hào về văn hiến lâu đời thì trong những câu thơ này, nhà văn thể hiện niềm tự hào về truyền thống đấu tranh, truyền thống anh hùng của dân tộc. Nhà văn khẳng định Việt Nam có nền độc lập riêng, nền độc lập ấy được xây dựng bởi bao đời vua từ Triệu, Đinh, Lí, Trần. Vì vậy cùng với Trung Quốc,Việt Nam hoàn toàn bình đẳng, vì vậy kẻ thù không có quyền xâm phạm. Nguyễn Trãi thể hiện tinh thần dân tộc, lòng tự hào sâu sắc khi đặt Đại Việt sánh ngang với các triều đại Trung Quốc: “Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, tuy có những thăng trầm “mạnh yếu từng lúc khác nhau”,nhưng nhà thơ cũng khẳng định “hào kiệt đời nào cũng có”. Đó là những trang nam tử, những người anh hùng, khi mà đất nước lâm nguy, họ sẵn sàng đứng lên, dốc sức bảo vệ tổ quốc.
“Cho nên
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi”
Vì cố tình xâm phạm vào quốc gia có chủ quyền, có nền độc lập nên những kẻ xâm lược đã phải gánh chịu hậu quả vô cùng thê thảm. Lưu Cung, Triệu Tiết, Ô Mã, Toa Đô đều là những danh từ chỉ người, họ là những tên tướng cầm đầu đội quân xâm lược, vì bất chấp luân lí xâm phạm Đại Việt mà chúng đã nhận lấy những thất bại cay đắng. Nguyễn Trãi cũng sử dụng hệ thống các động từ để diễn tả sự thất bại ê chề này: “thất bại”, “tiêu vong”, “bắt sống”, “giết”. Bên cạnh việc chỉ ra những thất bại của quân giặc, Nguyễn Trãi cũng nêu lên những thắng lợi vang dội của quân dân Đại Việt như trận ở Hàm Tử, chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Những dẫn chứng mà nhà thơ nêu đều căn cứ vào sự thực lịch sử “chứng cớ còn ghi”, vì vậy mà không thể chối cãi.
“Vừa rồi
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ”
Nguyễn Trãi đã kể lại sự rối ren trong nước, khi họ Hồ "chính sự phiền hà", nhân dân lầm than, đau khổ rồi mang lòng oán hận với triều đại “lòng dân oán hận”. Nhân sự mâu thuẫn nội bộ của Đại Việt, quân Minh đã mưu kế xấu xa, muốn nhân cơ hội này để thực hiện những hành động phi nghĩa “Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa”. Một triều đại lớn mạnh như nhà Minh mà cũng “thừa cơ”, cách dùng từ của Nguyễn Trãi làm bật lên cái phi nghĩa của quân đội nhà Minh, đồng thời cũng thể hiện được cái tiểu nhân đê hèn trong hành động xâm lược ấy. Không chỉ lên án quân Minh mà nhà thơ còn vạch tội của những kẻ “bán nước cầu vinh”. Vì hành động bắt tay xâm lược của chúng đã đẩy nhân dân ta vào biết bao nhiêu tai họa. Nhà thơ đã sử dụng những động từ mạnh “nướng dân đen”, “vùi con đỏ” để vạch trần bản chất tàn nhẫn, độc ác của chúng.
“Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng khốn rừng sâu nước độc
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hưu đen, nơi nơi cạm đặt
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ”
Để mang lại lợi ích cho mình, quân giặc không từ một thủ đoạn, một hành động nhẫn tâm, tàn ác nào. Chúng không chỉ bắt dân ta nộp nhiều loại tô thuế mà còn bắt những người dân vô tội lên rừng xuống biển tìm cho chúng những món đồ quý giá. Cuộc sống của người dân vô cùng đau khổ, bi thương. Nhưng tiếng khóc của người dân chúng đâu thấy được, không chỉ người dân mà ngay cả những loài thú quý, hay những loài côn trùng, cây cỏ chúng cũng không buông tha.
“Bình ngô đại cáo” là một áng văn chính luận xuất sắc của dân tộc ta. Bài cáo vừa khẳng định hùng hồn, mạnh mẽ chủ quyền của dân tộc vừa thể hiện niềm tự hào với truyền thống văn hóa cũng như truyền thông đấu tranh của dân tộc. Là lời cảnh cáo đanh thép với lũ quân xâm lược, với bọn bán nước. Như vậy, “Bình ngô đại cáo” xứng đáng là một áng “thiên cổ hùng văn”.