Bài 57: Đa dạng sinh học

Casandra Chaeyoung

Viết 1 bài tuyên truyền về bảo vệ đa dạng sinh học cho một vùng bảo vệ hoặc khu bảo tồn, vườ quốc gia mà em biết.

Thời Sênh
8 tháng 5 2018 lúc 15:06

Khu Bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh Quảng Nam nằm trên địa bàn 2 huyện Nam Giang và Phước Sơn, với diện tích rừng và đất rừng hiện nay là hơn 75.000 ha, trong đó diện tích đất có rừng là hơn 62.000 ha chiếm hơn 82% diện tích khu bảo tồn. Vùng rộng lớn tiếp giáp với các Khu Bảo tồn thiên nhiên Ngọc Linh Kon Tum và Quảng Nam tạo nên một trong những vùng rừng liên tục và rộng lớn ở Việt Nam. Hơn thế nữa, nó còn là phần quan trọng trong Hành lang đa dạng sinh học kéo dài từ Kon Tum (Ngọc Linh) - Quảng Nam (Sông Thanh, Sao la, Voi, Ngọc Linh) - Thừa Thiên - Huế (Bạch Mã, Phong Điền) - Quảng Trị (Bắc Hướng Hóa, Đakrông). Khu Bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh còn nằm trong vùng chim đặc hữu cao Với tiềm năng đa dạng sinh học cao, Sông Thanh được xem là một thành phần quan trọng trong cảnh quan ưu tiên Trung Trường Sơn của vùng sinh thái dãy Trường Sơn. Đây là vùng lõi chủ yếu của vùng cảnh quan có vị trí ưu tiên của quốc gia, khu vực và toàn cầu do giá trị đa dạng sinh học và số lượng cao các loài đặc hữu đã ghi nhận được. Ông Phan Tuấn, Chi cục Trưởng Chi cục Kiểm lâm Quảng Nam cho biết: Để thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học trong khu bảo tồn, Chi cục kiểm lâm tỉnh Quảng Nam đã phối hợp với các ban, ngành chức năng tổ chức tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành tốt quy định về bảo vệ đa dạng sinh học; đồng thời củng cố và bố trí lại kiểm lâm địa bàn để phù hợp với năng lực công tác và yêu cầu nhiệm vụ được giao. Kiểm lâm địa bàn phối hợp với Lâm nghiệp xã tham mưu giúp UBND các xã trong vùng xây dựng và triển khai tốt phương án quản lý, bảo vệ rừng tại địa phương; tổ chức gây nuôi và trồng cấy nhân tạo các loài động vật, thực vật hoang dã trên địa bàn quản lý. Không những đẩy mạnh tuyên truyền, lực lượng kiểm lâm Quảng Nam còn tích cực triển khai thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy rừng và quản lý nương rẫy trên địa bàn quản lý; xây dựng phương án quản lý, bảo vệ rừng, thành lập các lực lượng chuyên trách, lực lượng quần chúng trong bảo vệ rừng và phòng cháy chữa cháy rừng với 200 người tham gia; tham mưu UBND các xã chọn người để ký hợp đồng trực cảnh báo cháy rừng tại 03 xã trọng điểm TàBhing, Phước Năng, Phước Công trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 8 hàng năm. Ông Từ Văn Khánh, Giám đốc Bản Quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh cho biết: Bên cạnh việc tuyên truyền, vận động người dân chấp hành tốt các chủ trương về bảo tồn đa dạng sinh học rừng trong Khu bảo tồn thiên nhiên thì lực lượng kiểm lâm của Hạt Kiểm lâm Rừng đặc dụng Sông Thanh còn tích cực phối hợp với cơ quan chức năng tổ chức đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm về quản lý, bảo vệ rừng. Năm 2015, lực lượng chức năng đã phát hiện và lập biên bản 94 vụ vi phạm, trong đó tạm giữ 76 m3 gỗ xẻ, 14 m3 gỗ tròn, 9 mô tô, 1 cá thể khỉ đuôi dài (đã lập biên bản và thả vào môi trường tự nhiên); ra quyết định xử lý 89 vụ, thu nộp ngân sách nhà nước hơn 1,13 tỷ đồng. Ngoài ra, Hạt Kiểm lâm Rừng đặc dụng Sông Thanh phối hợp với Đồn Biên phòng Đắc Pring, Đồn Biên phòng cửa khẩu Nam Giang tổ chức ký kết quy chế phối hợp trong công tác quản lý, bảo vệ rừng vùng giáp ranh, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị trong việc phối hợp kiểm tra, truy quét các hoạt động khai thác lâm, khoáng sản trái phép trong lâm phận tại khu vực biên giới. Để bảo tồn đang dạng sinh học tại Khu Bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh một cách bền vững, Ban Quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh đã tích cực thực hiện việc giao khoán cho 125 nhóm hộ và 231 hộ gia đình với diện tích hơn 41.000 ha, đồng thời cũng đã thực hiện việc hỗ trợ đầu tư phát triển cộng đồng vùng đệm cho 24 cộng đồng thôn. Các chương trình này đã huy động sức mạnh toàn dân vào công tác bảo vệ rừng, chất lượng cuộc sống của người dân được nâng lên; đồng thời góp phần thay đổi nhận thức cho người dân trong việc sử dụng tài nguyên bền vững, giảm thiểu các tác động xấu đối với rừng.

Bình luận (0)
❤Cô nàng ngốc ❤
8 tháng 5 2018 lúc 15:34

Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là một vườn quốc gia tại huyện Bố Trạch, và Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, cách thành phố Đồng Hới khoảng 50 km về phía Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội khoảng 500 km về phía nam. Vườn quốc gia này giáp khu bảo tồn thiên nhiên Hin Namno ở tỉnh Khammouan, Lào về phía tây, cách Biển Đông 42 km về phía đông kể từ biên giới của hai quốc gia.

Vườn quốc gia này được thiết lập để bảo vệ một trong hai vùng carxtơ lớn nhất thế giới với khoảng 300 hang động và bảo tồn hệ sinh thái bắc Trường Sơn ở khu vực Bắc Trung Bộ Việt Nam. Đặc trưng của vườn quốc gia này là các kiến tạo đá vôi, 300 hang động, các sông ngầm và hệ động thực vật quý hiếm nằm trong Sách đỏ Việt Nam và Sách đỏ thế giới.

Kiến tạo carxtơ của Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng được hình thành từ 400 triệu năm trước, từ thời kỳ Đại Cổ Sinh do đó là carxtơ cổ nhất ở châu Á.

. Khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng là một trong những mẫu hình riêng biệt và đẹp về sự kiến tạo carxtơ phức tạp ở Đông Nam Á. Được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới theo tiêu chí địa chất, địa mạo năm 2003, và được UNESCO công nhận lần 2 là Di sản thiên nhiên thế giới với tiêu chí đa dạng sinh học,

Vườn quốc gia này là một bộ phận của vùng sinh thái Trường Sơn. Cho đến nay, chủng loại thực vật lớn nhất ở đây là rừng thường xanh ẩm, rậm nhiệt đới trên đá vôi cao 800 m so với mực nước biển. 96,2% diện tích khu vườn quốc gia này được rừng bao phủ; 92,2% là rừng nguyên sinh; 74,7% (110.476 ha) khu vườn quốc gia này là rừng ẩm nhiệt đới thường xanh trên đá vôi có độ cao dưới 800 m; 8,5% (12.600 ha) là rừng ẩm nhiệt đới thường xanh trên đá vôi có độ cao trên 800 m; 8,3% (12.220 ha) là rừng ẩm nhiệt đới trên đất núi đất có cao độ dưới 800 m, 1,3% (1.925 ha) là bụi cây và cỏ và cây rải rác trên đá vôi; 2% (2.950 ha) là cỏ, bụi cây và cây rải rác trên núi đất; 180 ha là rừng tre nứa và mây song; thảm cây nông nghiệp 521 ha.

Theo số liệu thống kê mới nhất, Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là rừng nguyên sinh trên núi đá vôi điển hình với các loại thực vật đặc trưng như: nghiến (Burretiodendron hsienmu), chò đãi (Annamocarya spp.), chò nước (Plantanus kerii) và sao (Hopea spp.). Thực vật có mạch 152 họ, 511 kiểu gen, 876 loài thực vật có mạch, trong dó có 38 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam và 25 loài nằm trong Sách đỏ thế giới, 13 loài đặc hữu Việt Nam, trong đó có sao và cây họ Dầu (Dipterocarpaceae).

Ở vườn quốc gia này có một khu vực rừng bách xanh được phân bổ trên đỉnh núi đá vôi có diện tích khoảng trên 5000 ha, có khoảng 2500 cây với mật độ 600 cây/ha. Các cây bách xanh ở vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có tuổi 500-600 năm. Bởi hiện trên thế giới chỉ có 3 loài bách xanh đã được nhận diện. Đây là quần thể bách xanh núi đá (Calocedrus rupestris) lớn nhất Việt Nam. Loài bách xanh này nằm trong nhóm 2A theo quy định tại công văn số 3399/VPCP-NN (ngày 21 tháng 6 năm 2002) đính chính cho nghị định 48 của Chính phủ, thuộc nhóm quý hiếm, hạn chế khai thác.

Trường Đại học Khoa học tự nhiên thuộc Đại học quốc gia Hà Nội, phối hợp với Trung tâm nghiên cứu khoa học và Cứu hộ của Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng phát hiện thêm tại vườn quốc gia này 1.320 loài thực vật mới, trong đó có một số quần thể thực vật lớn được đánh giá là đặc biệt quý hiếm.

Các nhà khoa học cũng phát hiện 3 loài lan hài quý hiếm, và rừng bách xanh núi đá duy nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Lan Hài ở đây có ở vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có 3 loài: lan hài xanh (Paphiopedilum malipoense), lan hài xoắn (Paphiopedilum dianthum), lan hài đốm (Paphiopedilum concolor). IUCN (Hiệp hội Bảo vệ Thiên nhiên Thế giới) trong năm 1996 đã xếp lan hài là loài đang đứng trước nguy cơ diệt vong rất cao (tuyệt chủng trong tương lai gần).

Phong Nha-Kẻ Bàng là nơi sinh sống của 140 loài thú thuộc 31 họ và 10 bộ, nổi bật nhất là hổ và bò tót, loài bò rừng lớn nhất thế giới, 302 loài chim, trong đó có ít nhất 43 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam và 19 loài nằm trong Sách đỏ thế giới; 81 loài bò sát lưỡng cư (18 loài trong Sách đỏ Việt Nam và 6 loài Sách đỏ thế giới); 259 loài Bộ Cánh vẩy; 72 loài cá, trong đó có 4 loài đặc hữu Việt Nam. Năm 1996, ở đây có loài cá mới phát hiện ở Việt Nam. Linh trưởng có 10 loài linh trưởng, chiếm 50% tổng số loài thuộc bộ linh trưởng ở Việt Nam, 7 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam, đặc biệt là voọc Hà Tĩnh, sao la, mang (thú). Phong Nha-Kẻ Bàng được đánh giá là có hệ tự nhiên đa dạng nhất trong tất cả các vườn quốc gia và khu dự trữ sinh quyển quốc gia trên thế giới.

Phong Nha-Kẻ Bàng là nơi có cộng đồng linh trưởng phong phú bậc nhất Đông Nam Á[40][41]. Năm 2002, nhà khoa học Đức Thomas Zegler đã phát hiện ra một loài thằn lằn tai mới có tên là Tripidophrus Nogei tại vùng núi karst thuộc khu vực Chà Nòi. Loài thằn lằn này đã được đăng trên số báo 114 (2) phát hành tháng 7 năm 2007 của tạp chí Revue Suise De Zoologie. Các nhà khoa học đã đặt tên loài này là Thằn lằn Phong Nha-Kẻ Bàng (danh pháp khoa học: Cyrtodactylus phongnhakebangensis). Các nhà khoa học Đức đã xây dựng một khu giới thiệu Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng tại Vườn thú Köln để giới thiệu sự đa dạng sinh học của vườn quốc gia này, ở đây cũng phát hiện ra loại rắn mai gầm mới. Qua một thời gian khảo sát, các nhà khoa học Đức, Nga và Việt Nam đã phát hiện thêm 10 loài mới trong vườn quốc gia này, trong đó bao gồm 5 loài rắn, 5 loài tắc kè, thằn lằn, nhiều loài trong số mới phát hiện này là động vật đặc hữu ở đây.

Các nhà khoa học Việt Nam và các nhà khoa học Nga thuộc Viện Động vật hoang dã Sankt-Peterburg, các nhà khoa học Đức của Vườn thú Köln đã phát hiện thêm tại vườn quốc gia này hơn 100 loài mới trong khu hệ cá. Mười loại cá chưa từng thấy ở Việt Nam đã được phát hiện ở vườn quốc gia này.

Trong 3 loài cá ở Phong Nha-Kẻ Bàng được ghi vào Sách Đỏ Việt Nam thì đã có 2 loài cá chình. Đó là cá chình hoa và cá chình mun[48].

Tổ chức Bảo tồn Động vật hoang dã Thế giới (FFI) đã tiến hành khảo sát và đã có báo cáo cho rằng Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có 4 loài được xếp vào diện nguy cấp trên phạm vi toàn cầu, đó là voọc Hà Tĩnh, voọc đen tuyền, voọc ngũ sắc và vượn đen má trắng[49].

Ngày 27 tháng 2 năm 2005, một đàn bò tót với số lượng lớn xuất hiện tại Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng.

Năm 2010, một loài bọ cạp mới có tên khoa học là Vietbocap canhi, tên tiếng Việt là bọ cạp Cảnh đã được phát hiện tại động Tiên Sơn. Năm 2012, một loài bọ cạp mới có tên khoa học là Vietbocap thienduongensis. Tên tiếng Việt là bọ cạp Thiên Đường đã được phát hiện tại hang Thiên Đường.

Bình luận (0)
❤Cô nàng ngốc ❤
8 tháng 5 2018 lúc 15:34

Mỗi năm, hàng ngàn loài động vật hoang dã bị tuyệt chủng.
Những loài vật đã có thời từng lang thang khắp Trái Đất hàng đàn thì
nay đã vĩnh viễn biến khỏi hành tinh của chúng ta với một tốc độ
nhanh khủng khiếp. Các nhà khoa học ước tính rằng tốc độ tuyệt
chủng hiện thời cao hơn 1000 lần so với tốc độ bình thường chỉ bởi
một yếu tố. Điều gì đã gây ra tốc độ tuyệt chủng tăng nhanh đến thế?
Câu trả lời đơn giản nhưng đáng lo ngại là: con người.
Điều không ổn ở đây là gì?
Chúng ta đang tiêu thụ các tài nguyên thiên nhiên của Trái Đất
nhanh hơn so với mức có thể tái tạo được chúng. Chúng ta đang hủy
hoại môi trường sống của động vật, thức ăn, nước và không khí của
chúng, và tiêu diệt chính bản thân các loài vật, với một tốc độ không
thể chống lại. Càng nhiều tổ chim bị phát quang đi để xây những tòa
nhà chọc trời, nhiều con sông bị san lấp để làm bãi đỗ xe và nhiều đàn
voi bị tàn sát để làm đồ trang sức rẻ tiền, thì số lượng và tính đa dạng
của động vật càng bị giảm sút.
Ngoài việc tiêu thụ quá nhiều tài nguyên, một xu hướng đáng lo
ngại hơn đang đe dọa động vật hoang dã; đó là nạn buôn bán động
vật hoang dã bất hợp pháp. Nạn buôn lậu các loài động vật hoang dã
và các bộ phận cơ thể chúng trên thị trường chợ đen đang tăng lên.
Nhu cầu ngày càng tăng đối với các sản phẩm có nguồn gốc từ một số
loài động vật trên cạn điển hình như voi, tê giác và hổ không chỉ đe
dọa những loài động vật đó mà còn đe dọa cả sự yên bình, sức khỏe
và sự thịnh vượng của cư dân sống gần chúng.
Tại sao chúng ta phải quan tâm
Khi toàn bộ một loài vật đi đến tuyệt chủng thì tổn thất gây ra
không chỉ dừng lại ở tổng số con vật bị mất đi. Mặc dù chúng ta có thể
coi thế giới động vật là tách biệt với chúng ta, nhưng cuộc sống của
chúng ta và cuộc sống của chúng lại liên kết chặt chẽ, gắn kết với
nhau bằng cả triệu sợi dây vô hình. Cây cối, động vật, con người và
- 3 -
môi trường cùng nhau cấu thành một cộng đồng sinh học – một hệ
sinh thái – mà trong đó mỗi bộ phận này đều phụ thuộc vào các bộ
phận kia để tồn tại. Khi một bộ phận của cộng đồng đó bị rơi vào tình
trạng mất cân bằng hoặc bị loại bỏ thì toàn bộ hệ sinh thái đó sẽ gánh
chịu hậu quả. Hơn nữa, việc buôn bán bất hợp pháp động vật hoang
dã còn làm suy giảm an ninh của người dân và các nguồn lợi thu được
từ việc kinh doanh hợp pháp.
Mọi người đều có thể giúp sức
Mặc dù con người là mối đe dọa lớn nhất của động vật hoang
dã, nhưng chúng ta cũng là niềm hy vọng duy nhất của chúng. Trên
khắp thế giới, các cá nhân và các nhóm nhỏ cũng như các tổ chức lớn,
các tập đoàn và các chính phủ đang góp phần vào việc đảm bảo một
tương lai an toàn hơn cho các loài động vật hoang dã của chúng ta và
cho cả chúng ta. Từ việc kiềm chế nhu cầu đối với các sản phẩm được
chế ra từ động vật hoang dã, việc xây dựng và thực thi luật lệ chống
lại nạn buôn bán bất hợp pháp, và tình nguyện đứng trong các tổ
chức bảo tồn động vật hoang dã giúp bảo vệ các loài đang có nguy cơ
tuyệt chủng, những người anh hùng trong lĩnh vực bảo vệ động vật
hoang dã đang chiến đấu với các mối đe dọa tới các động vật hoang
dã theo nhiều cách thức khác nhau.
Không có hành động bảo vệ động vật hoang dã nào là quá nhỏ
nhoi, mỗi hành động đều có ý nghĩa. Chúng ta không thể phục hồi
các loài đã mất, nhưng còn có nhiều loài nữa đang bên bờ vực tuyệt
diệt; chúng cần sự quan tâm và hành động tức thì của chúng ta. Đừng
tiếp tay cho vấn nạn này mà hãy giải quyết nó: Hãy quan tâm và bảo
vệ động vật hoang dã trên Trái Đất.

Bình luận (0)
❤Cô nàng ngốc ❤
8 tháng 5 2018 lúc 15:35

Nằm trong hệ thống các khu rừng đặc dụng của Việt Nam, Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu – Phước Bửu (Khu BTTN BC-PB) được công nhận theo Quyết định số 194/CT ngày 9 tháng 8 năm 1986 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ). Đây là khu rừng tự nhiên cây họ Dầu ven biển duy nhất còn sót lại của Việt Nam tại huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, với diện tích 10.432,4 ha, khu bảo tồn bao gồm nhiều dạng sinh cảnh núi, rừng, cồn cát, hồ, biển,…và còn là một địa điểm nghiên cứu khoa học, du lịch sinh thái hấp dẫn với nhiều loại hình du lịch như: nghỉ ngơi, thể thao, leo núi, cắm trại, tắm biển,…

Khu BTTN BC-PB được xếp vào “Kiểu thực vật rừng kín, nửa rụng lá ẩm nhiệt đới”. Thành phần thực vật gồm 796 loài thuộc 134 họ (theo báo cáo kỹ thuật. Trung tâm đa dạng sinh học và phát triển, Viện sinh học Nhiệt đới và Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu – Phước Bửu, năm 2012), trong đó có nhiều loài quý hiếm như: Cẩm lai Bà Rịa, Gõ đỏ, Gõ mật, Giáng hương, Bình linh nghệ, Dầu cát..., riêng loài Dầu cát (Dipterocarpus costatus) được coi là loài cây đặc hữu của Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu – Phước Bửu. Kết quả khảo sát, điều tra về Tài nguyên động vật rừng đã xác định có 325 loài có xương sống thuộc các lớp ếch nhái, bò sát, chim và thú (chiếm ~91% các loài động vật trong toàn tỉnh BR-VT), một số loài quý hiếm có tên trong sách đỏ Thế giới và Việt Nam như: Khỉ đuôi dài, Khỉ đuôi lợn, Gà lôi hông tía, Cu li nhỏ, Rùa núi vàng... Tuy nhiên, trong những năm gần đây diện tích rừng đang bị thu hẹp đáng kể về số lượng lẫn chất lượng, tình trạng người dân lén lút vào chặt phá rừng, đốt rừng, lấn chiếm rừng đang diễn ra rất phức tạp, chính vì thế môi trường sống của các loài động thực vật đã và đang bị đe dọa nghiêm trọng, số lượng cá thể suy giảm, nhiều loài quý hiếm đã và đang bị dồn đến bờ vực của sự tuyệt chủng. Vì vậy, đa dạng sinh học tại Khu BTTN BC-PB đang phải đối mặt với một thách thức lớn về vấn đề bảo tồn. Chính vì vậy việc nâng cao nhận thức về bảo vệ rừng cho cộng đồng dân cư sống ven rừng là biện pháp tiền đề quan trọng và có giá trị bền vững nhất trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học tại Khu BTTN BC-PB. Trong những năm qua, Khu BTTN BC-PB đã triển khai nhiều biện pháp, trong đó đặc biệt chú trọng đến công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật bảo vệ rừng đến cộng đồng dân cư với nhiều hình thức như: hàng tháng, BQL Khu bảo tồn đều có bài tuyên truyền Bảo vệ rừng, Bảo vệ môi trường, Phòng cháy chữa cháy rừng, chống chặt phá rừng, chiếm đất rừng trên Đài phát thanh của huyện, UBND 4 xã có rừng, Bản tin NN & TT và Website của Sở NN&PTNT; phối hợp với UBND các xã có rừng phân phát tờ rơi và ký cam kết bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường, tuyên truyền lưu động đến từng hộ dân sống ven rừng; tổ chức các lớp tập huấn, hội thảo để tuyên truyền phổ biến pháp luật về Bảo vệ rừng và Phòng cháy chữa cháy rừng,…đây là những hình thức tuyên truyền thiết thực và cần được phát huy.

Bên cạnh các hoạt động trên thì BQL Khu bảo tồn cũng đang tiếp tục triển khai thành lập 04 CLB Xanh tại 04 trường THCS ven rừng, vì học sinh THCS là lứa tuổi đang trong giai đoạn hình thành tính cách và phẩm chất cá nhân, nếu tác động kịp thời những quan điểm đúng đắn và những bài học thuyết phục, các bạn sẽ dễ dàng nắm bắt và nhận thức được vấn đề (năm 2011, được sự tài trợ của Quỹ bảo tồn Việt Nam, Khu bảo tồn đã phối hợp với 04 trường THCS ven rừng thành lập được 04 CLB Xanh, qua một năm thực hiện cũng đã gặt hái được những thành công nhất định, nhưng do kinh phí dự án kết thúc nên không thể duy trì hoạt động)

Mục tiêu của các CLB Xanh là bảo tồn thiên nhiên thông qua các hoạt động thiết thực, vừa học, vừa chơi nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết của các em học sinh trong công tác bảo vệ môi trường, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, định hướng cho các em sống có trách nhiệm với môi trường và có những hành động cụ thể nhằm bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên. 04 CLB Xanh với 100 thành viên, 8 thầy cô giáo và 02 cán bộ khu bảo tồn phụ trách. Hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện và chịu sự quản lý của Ban giám hiệu các Trường, dưới sự giám sát của Ban quản lý Khu bảo tồn. Theo đó,các CLB Xanh sẽ hoạt động ít nhất 1 tháng/lần. Các thành viên của CLB được tham gia vào các hoạt động tình nguyện do CLB tổ chức như: thi viết bài về bảo vệ môi trường theo các chủ đề hàng tháng (rừng, đất, nước, không khí, biến đổi khí hậu, đa dạng sinh học,…) đăng trên bản tin của CLB; tham quan, tuần tra rừng cùng lực lượng bảo vệ rừng Khu bảo tồn; diễu hành tuyên truyền bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường; dọn dẹp vệ sinh trường học, khu dân cư và các tuyến đường trung tâm,… Để công tác tuyên truyền trong thời gian tới đạt chất lượng và hiệu quả hơn nữa nhằm góp phần bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên đa dạng sinh học. BQL Khu BTTN Bình Châu – Phước Bửu rất cần sự quan tâm, phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan chức năng, Đài phát thanh huyện, UBND các xã có rừng và Phòng giáo dục huyện, BGH các trường có hoạt động CLB Xanh trong công tác phối hợp tuyên truyền và tổ chức các hoạt động.
Bình luận (0)
Huong San
8 tháng 5 2018 lúc 21:08

Nằm trong hệ thống các khu rừng đặc dụng của Việt Nam, Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu – Phước Bửu (Khu BTTN BC-PB) được công nhận theo Quyết định số 194/CT ngày 9 tháng 8 năm 1986 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ). Đây là khu rừng tự nhiên cây họ Dầu ven biển duy nhất còn sót lại của Việt Nam tại huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, với diện tích 10.432,4 ha, khu bảo tồn bao gồm nhiều dạng sinh cảnh núi, rừng, cồn cát, hồ, biển,…và còn là một địa điểm nghiên cứu khoa học, du lịch sinh thái hấp dẫn với nhiều loại hình du lịch như: nghỉ ngơi, thể thao, leo núi, cắm trại, tắm biển,…

Khu BTTN BC-PB được xếp vào “Kiểu thực vật rừng kín, nửa rụng lá ẩm nhiệt đới”. Thành phần thực vật gồm 796 loài thuộc 134 họ (theo báo cáo kỹ thuật. Trung tâm đa dạng sinh học và phát triển, Viện sinh học Nhiệt đới và Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu – Phước Bửu, năm 2012), trong đó có nhiều loài quý hiếm như: Cẩm lai Bà Rịa, Gõ đỏ, Gõ mật, Giáng hương, Bình linh nghệ, Dầu cát..., riêng loài Dầu cát (Dipterocarpus costatus) được coi là loài cây đặc hữu của Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu – Phước Bửu. Kết quả khảo sát, điều tra về Tài nguyên động vật rừng đã xác định có 325 loài có xương sống thuộc các lớp ếch nhái, bò sát, chim và thú (chiếm ~91% các loài động vật trong toàn tỉnh BR-VT), một số loài quý hiếm có tên trong sách đỏ Thế giới và Việt Nam như: Khỉ đuôi dài, Khỉ đuôi lợn, Gà lôi hông tía, Cu li nhỏ, Rùa núi vàng... Tuy nhiên, trong những năm gần đây diện tích rừng đang bị thu hẹp đáng kể về số lượng lẫn chất lượng, tình trạng người dân lén lút vào chặt phá rừng, đốt rừng, lấn chiếm rừng đang diễn ra rất phức tạp, chính vì thế môi trường sống của các loài động thực vật đã và đang bị đe dọa nghiêm trọng, số lượng cá thể suy giảm, nhiều loài quý hiếm đã và đang bị dồn đến bờ vực của sự tuyệt chủng. Vì vậy, đa dạng sinh học tại Khu BTTN BC-PB đang phải đối mặt với một thách thức lớn về vấn đề bảo tồn. Chính vì vậy việc nâng cao nhận thức về bảo vệ rừng cho cộng đồng dân cư sống ven rừng là biện pháp tiền đề quan trọng và có giá trị bền vững nhất trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học tại Khu BTTN BC-PB. Trong những năm qua, Khu BTTN BC-PB đã triển khai nhiều biện pháp, trong đó đặc biệt chú trọng đến công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật bảo vệ rừng đến cộng đồng dân cư với nhiều hình thức như: hàng tháng, BQL Khu bảo tồn đều có bài tuyên truyền Bảo vệ rừng, Bảo vệ môi trường, Phòng cháy chữa cháy rừng, chống chặt phá rừng, chiếm đất rừng trên Đài phát thanh của huyện, UBND 4 xã có rừng, Bản tin NN & TT và Website của Sở NN&PTNT; phối hợp với UBND các xã có rừng phân phát tờ rơi và ký cam kết bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường, tuyên truyền lưu động đến từng hộ dân sống ven rừng; tổ chức các lớp tập huấn, hội thảo để tuyên truyền phổ biến pháp luật về Bảo vệ rừng và Phòng cháy chữa cháy rừng,…đây là những hình thức tuyên truyền thiết thực và cần được phát huy.


Bên cạnh các hoạt động trên thì BQL Khu bảo tồn cũng đang tiếp tục triển khai thành lập 04 CLB Xanh tại 04 trường THCS ven rừng, vì học sinh THCS là lứa tuổi đang trong giai đoạn hình thành tính cách và phẩm chất cá nhân, nếu tác động kịp thời những quan điểm đúng đắn và những bài học thuyết phục, các bạn sẽ dễ dàng nắm bắt và nhận thức được vấn đề (năm 2011, được sự tài trợ của Quỹ bảo tồn Việt Nam, Khu bảo tồn đã phối hợp với 04 trường THCS ven rừng thành lập được 04 CLB Xanh, qua một năm thực hiện cũng đã gặt hái được những thành công nhất định, nhưng do kinh phí dự án kết thúc nên không thể duy trì hoạt động)


Mục tiêu của các CLB Xanh là bảo tồn thiên nhiên thông qua các hoạt động thiết thực, vừa học, vừa chơi nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết của các em học sinh trong công tác bảo vệ môi trường, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, định hướng cho các em sống có trách nhiệm với môi trường và có những hành động cụ thể nhằm bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên. 04 CLB Xanh với 100 thành viên, 8 thầy cô giáo và 02 cán bộ khu bảo tồn phụ trách. Hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện và chịu sự quản lý của Ban giám hiệu các Trường, dưới sự giám sát của Ban quản lý Khu bảo tồn. Theo đó,các CLB Xanh sẽ hoạt động ít nhất 1 tháng/lần. Các thành viên của CLB được tham gia vào các hoạt động tình nguyện do CLB tổ chức như: thi viết bài về bảo vệ môi trường theo các chủ đề hàng tháng (rừng, đất, nước, không khí, biến đổi khí hậu, đa dạng sinh học,…) đăng trên bản tin của CLB; tham quan, tuần tra rừng cùng lực lượng bảo vệ rừng Khu bảo tồn; diễu hành tuyên truyền bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường; dọn dẹp vệ sinh trường học, khu dân cư và các tuyến đường trung tâm,… Để công tác tuyên truyền trong thời gian tới đạt chất lượng và hiệu quả hơn nữa nhằm góp phần bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên đa dạng sinh học. BQL Khu BTTN Bình Châu – Phước Bửu rất cần sự quan tâm, phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan chức năng, Đài phát thanh huyện, UBND các xã có rừng và Phòng giáo dục huyện, BGH các trường có hoạt động CLB Xanh trong công tác phối hợp tuyên truyền và tổ chức các hoạt động.

Bình luận (0)
Duy Khanh
8 tháng 5 2018 lúc 21:24

Việt Nam được biết đến như một trung tâm đa dạng sinh học (ĐDSH) của thế giới, với các hệ sinh thái tự nhiên phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, do áp lực gia tăng dân số, tình trạng khai thác quá mức tài nguyên sinh vật, công tác quản lý bảo tồn ĐDSH còn nhiều bất cập, nhất là ý thức bảo vệ ĐDSH của cộng đồng chưa cao… là những nguyên nhân dẫn đến tình trạng tài nguyên ĐDSH của Việt Nam tiếp tục trên đà suy thoái.

PGS, TS Lê Xuân Cảnh (Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật) cho biết: Năm 1992, Trung tâm giám sát bảo tồn thế giới xếp Việt Nam là một trong 16 quốc gia có ĐDSH cao nhất thế giới; đứng thứ tư thế giới về các loài linh trưởng, với năm trong số 25 loài linh trưởng nguy cấp nhất. Trong khi đó, theo số liệu báo cáo quốc gia về ĐDSH (năm 2011) cho thấy, tại Việt Nam ghi nhận được khoảng hơn 49 nghìn loài sinh vật, bao gồm: Khoảng 7.500 loài/chủng vi sinh vật; 20 nghìn loài thực vật trên cạn và dưới nước; 10.500 loài động vật trên cạn; hơn 11 nghìn sinh vật biển... Đáng chú ý, nước ta còn có nhiều vườn quốc gia và khu bảo tồn, là môi trường sống và phát triển của các loài sinh vật, đã và đang đóng góp cho việc bảo tồn loài hoang dã, cũng như các loài nguy cấp, quý, hiếm. Tuy nhiên, đa dạng về loài của Việt Nam đang bị đe dọa nghiêm trọng, một số loài đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng như: Sao la, voọc mũi hếch, voọc Cát Bà, cá nóc, bò biển… Điển hình như loài hổ sống trong các khu rừng ở Việt Nam giảm từ khoảng 1.000 con (trước năm 1970) xuống còn 80 đến 100 con vào năm 2005 và đến năm 2010, số lượng này giảm xuống chỉ còn khoảng 30 con…

Theo Phó Tổng cục trưởng Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường), TS Nguyễn Thế Đồng: ĐDSH ở Việt Nam mang lại những lợi ích trực tiếp cho con người và đóng góp to lớn cho nền kinh tế, nhất là trong sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản; bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; duy trì nguồn gien tạo giống vật nuôi, cây trồng; điều tiết khí hậu, bảo vệ môi trường… Nhận thức được tầm quan trọng của công tác bảo tồn ĐDSH, Việt Nam là một trong những quốc gia tham gia tích cực các hiệp ước quốc tế về ĐDSH như: Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế (RAMSAR); Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES)… Việt Nam cũng ban hành nhiều bộ luật quan trọng trong lĩnh vực quản lý tài nguyên thiên nhiên như: Luật Bảo vệ và Phát triển rừng; Luật Thủy sản; Luật ĐDSH… Đáng chú ý, để định hướng cho công tác bảo tồn ĐDSH , Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách quan trọng trong lĩnh vực này như: Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3-6-2013 của Ban Chấp hành T.Ư Đảng khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về ĐDSH đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quy hoạch tổng thể bảo tồn ĐDSH của cả nước đến năm 2020, định hướng đến năm 2030… Qua đó, Việt Nam đã đạt được một số thành tựu quan trọng trong công tác bảo tồn ĐDSH như: Hệ thống khung pháp luật và chính sách quốc gia về bảo tồn ĐDSH ngày càng được củng cố, hoàn thiện; nhận thức xã hội và sự tham gia của các bên liên quan vào công tác bảo tồn ĐDSH có nhiều chuyển biến rõ rệt, nhất là các dịch vụ hệ sinh thái trọng yếu tiếp tục được duy trì và cung cấp các dịch vụ quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Tuy nhiên, tài nguyên ĐDSH của Việt Nam hiện vẫn đang tiếp tục trên đà suy thoái; các hệ sinh thái thu hẹp, bị chia cắt và suy giảm chất lượng; các loài nguy cấp đang gia tăng; nguồn gien bị thất thoát, mai một… Theo các chuyên gia về ĐDSH và bảo vệ môi trường, nguyên nhân của tình trạng này là do áp lực gia tăng dân số, kéo theo nhu cầu tiêu thụ, khai thác quá mức tài nguyên sinh vật và sự đánh đổi bảo tồn với phát triển kinh tế. Trong khi đó, công tác quản lý bảo tồn ĐDSH thời gian qua còn nhiều bất cập về quy định pháp luật, chính sách, thể chế và tổ chức bộ máy quản lý. Việc đầu tư kinh phí thực hiện công tác bảo tồn ĐDSH còn dàn trải, thiếu trọng điểm; công tác xã hội hóa về bảo tồn ĐDSH chưa được đẩy mạnh, ý thức bảo vệ ĐDSH của cộng đồng chưa cao. Ngoài ra, nạn săn bắn, buôn bán, vận chuyển trái phép động vật hoang dã, thói quen tiêu thụ động vật hoang dã không ngừng gia tăng; việc khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên đối với lâm sản và thủy sản làm cạn kiệt nguồn tài nguyên, không bảo đảm cho việc tái tạo lại các nguồn tài nguyên trong tự nhiên… gây ra sự tuyệt chủng của các loài động, thực vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm.

Phó Tổng cục trưởng Môi trường, TS Nguyễn Thế Đồng cho rằng: Để tăng cường công tác quản lý, bảo tồn ĐDSH, thời gian tới, Việt Nam cần triển khai và thực hiện đồng bộ các giải pháp như: Tiếp tục thực hiện rà soát và hoàn thiện các quy định pháp luật về ĐDSH, nhất là các luật và hệ thống văn bản hướng dẫn Luật Bảo vệ và Phát triển rừng; Luật Thủy sản, Luật ĐDSH, để bảo đảm tính thống nhất, hiệu lực và hiệu quả. Củng cố và phát triển hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về bảo tồn ĐDSH, trong đó chú trọng đến việc tăng cường hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở cấp tỉnh. Đẩy mạnh hướng dẫn thực hiện các chế tài về ĐDSH, xử lý nghiêm các vụ vi phạm về ĐDSH nhằm bảo đảm tính nghiêm minh của việc thực thi pháp luật; thúc đẩy công tác tuyên truyền, vận động, phổ biến pháp luật về ĐDSH từ T.Ư đến địa phương và cộng đồng…

Các nhà bảo tồn ĐDSH cũng cho rằng: Để nâng cao hiệu quả tài nguyên ĐDSH cần đa dạng hóa nguồn tài chính từ ngân sách Nhà nước, từ nguồn tài trợ quốc tế và các nguồn thu khác. Trong đó, cần chú trọng huy động sự đóng góp của khu vực tư nhân, các tổ chức phi chính phủ, cộng đồng cho công tác này. Lồng ghép các yêu cầu về bảo vệ ĐDSH trong đánh giá tác động môi trường và đánh giá môi trường chiến lược; tiếp tục phát huy và nhân rộng các mô hình cộng đồng tham gia bảo tồn ĐDSH như cộng đồng tham gia tuần tra, bảo vệ, giám sát ĐDSH tại các khu bảo tồn; tiếp tục nghiên cứu và tạo cơ chế để huy động sự tham gia của khu vực tư nhân trong công tác bảo tồn ĐDSH.

Bình luận (0)

Các câu hỏi tương tự
Quyen Tran
Xem chi tiết
Hạnh Trần
Xem chi tiết
nguyễn
Xem chi tiết
Đức Minh Lê
Xem chi tiết
huy =)
Xem chi tiết
*•.¸♡ρυи๛
Xem chi tiết
Vy
Xem chi tiết
Kazuto Kirigaya
Xem chi tiết
Đinh Anh Tú ╰︿╯
Xem chi tiết