Sau những thất bại nặng nề liên tiếp, địch phải co lại cố thủ để xin tăng viện từ chính quốc. Vương Thông dao động, “trá hàng” chờ viện binh. Ngày 18-10-1427, Liễu Thăng chỉ huy 10 vạn quân hướng chủ yếu vào Lạng Sơn. Mộc Thạch chỉ huy 5 vạn vào hướng Hà Giang để giải cứu cho Vương Thông trong kinh thành Đông Đô. Ta chủ động vây thành diệt viện binh “Viện binh bị tiêu diệt thì thành phải hàng – Đánh một mà được hai” theo kế sách của Nguyễn Trãi. Quyết chiến điểm mai phục trận diệt viện binh trên hướng Lạng Sơn xuống là ải Chi Lăng với 4 vạn quân cơ động phục kích. Liễu Thăng hùng hổ dẫn đầu 1 vạn quân vào Đông Đô vào ngày 20-10-1427. Đúng vào kế mai phục của ta, cả vạn quân địch “tiên phong” này bị tiêu diệt và tan rã hoàn toàn. Liễu Thăng bị Trần Lựu của ta chém đầu tại trận bên sườn núi Mã Yên. Tiếp theo, trong gần một tháng sau ta tiêu diệt, đánh tan tác 7 vạn tên, bắt sống 3 vạn tên. Phía Hà Giang 5 vạn quân của Mộc Thạch bị tiêu hao phải tháo lui qua biên giới với các trận bám đánh của địa phương quân ta. Viện binh cả hai hướng đều bị tiêu diệt và tháo chạy, Vương Thông hoàn toàn bị cô lập mất hết nhuệ khí, hy vọng vào viện binh từ chính quốc tan tành, nên y đã xin Lê Lợi cho đầu hàng. Ngày 16-12-1427, Nguyễn Trãi đã tổ chức “Hội thề Đông Quan” (phía Nam Hoàng Thành) để Vương Thông đọc lời thề cam kết xin rút hết quân về nước và không bao giờ xâm phạm Đại Việt nữa. Cuối năm đó Lê Lợi đã cấp thuyền, ngựa, lương thực cho 86.000 quân sĩ Vương Thông triệt thoái an toàn khỏi nước ta. Đồng thời gửi sang vua nhà Minh mũ mão, xiên giáp, ấn tín của Liễu Thăng và nhiều tên tướng khác cùng với danh sách 27.000 tên tù binh. Sau 10 năm kháng chiến thắng lợi (1418-1428), vào ngày 15-4-1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế tại điện Kính Thiên trong Hoàng Thành, giữ quốc hiệu là Đại Việt, quốc đô là Đông Đô 2. ĐÔI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM Nguyễn Trãi là người toàn đức, toàn tài và cũng là tác gia vĩ đại trong lịch sử văn học dân tộc thời trung đại. điều này thể hiện rõ trong sự nghiệp cứu nước của ông. 2.1 TÁC GIẢ Nguyễn Trãi, tên thật là Ức Trai, quê gốc ở xã Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng. Sau di cư về làng Ngọc Hồi, ngày nay là xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Tây. Nguyễn Trãi là con đầu của Nguyễn Ứng Long( sau đổi là Nguyễn Phi Khanh) và là cháu ngoại quan tư đồ Trần Nguyên Đán, nhà thơ xuất sắc cuối triều trần. Lúc còn trẻ, Nguyễn Ứng Long nổi tiếng là hay chữ, nên được Trần Nguyên Đán dời về nhà dạy học cho các con gái. Sau một thời gian, ông đã yêu Trần Thị Thái, con gái đàu của quan tư đồ Trần Nguyên Đán, rồi được quan tư đồ vui lòng cho ông và cô Thái kết hôn và sau đó hạ sinh Nguyễn Trãi. Năm 1374, Nguyễn Ứng Long thi đậu tiến sĩ nhưng vì là bân nhân mà dám lấy con gái quý tộc, nên không được làm quan mà chỉ giữ chứ quan nhỏ. Về sau ông ngoại về hưu thì đem Nguyễn Trãi theo, chẳng bao lâu thì mẹ mất, rồi năm 1390 ông ngoại cũng qua đời, Nguyễn Trãi trở về lại với cha ở Nhị Khê. Tại đây ông được cha dạy dỗ. Năm 1400 Hồ Quí Ly cướp ngôi nhà Trần rồi tổ chức khoa thi, Nguyễn Trãi thi đỗ thái học sinh, liền sau đó được trao chức Ngự Sử đài chánh trưởng. Nguyễn Ứng Long đổi tên là Nguyễn Phi Khanh, cùng ra làm qua với nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh cướp nước ta, cha con Hồ Quý Ly bị bắt đưa về Trung Quốc. Nhiều bề tôi nhà Hồ cũng bị bắt hoặc buộc phải ra hàng, trong đó có Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi muốn trọn đạo hiếu, bèn đi theo cha, nhưng Khanh dạy: “tìm cách rữa nhục cho nước, trả thù cho cha thì mới đại hiếu”. Y theo lời cha, tuy bị giặc dùng mọi cách để dụ dỗ hoặc chiêu hàng nhưng ông một mực từ chối và đã bị giặc giam lõng ở Đông Quan. Khi Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa thì Nguyễn Trãi đã có mặt rất sớm trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn này. Ông dâng cho Lê Lợi bản Bình Ngô sách(sách lược đánh giặc Ngô), trong đó ông vạch ra phương án cơ bản muốn thắng giặc Ngô là phải “không nói đén việc đánh thành mà nói đến việc đánh vào lòng người”(Ngô Thế Vinh). Tư tưởng này là một trong những nhân tố quyết định việc thắng lợi của nghĩa quân Lam Sơn Trong thời gian kháng chiến, Nguyễn Trãi giúp Lê Lợi trù hoạch quân mưu, góp phần xây dựng chính quyền độc lập với chính quyền xâm lược, và cũng giúp Lê Lợi soạn thảo những thư từ giao thiệp với quân Minh. Cuối năm 1426, nghĩa quân Lam Sơn vây thành Đông Quan, tại đây ông được phong chức Thượng thư bộ lại kiêm Hành khu mật viện sự. Đên năm 1482, cuộc kháng chiến thắng lợi, đất nước độc lập, Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết Bình Ngô Đại Cáo nổi tiếng đến giờ và nó được xem bản hùng văn tuyên ngôn độc lập nước ta lần thứ hai. Khi đất nước hòa bình, luận công khen thưởng Nguyễn Trãi được ban họ vua, được ban chức Quan Phục hầu vẫn giữ chứ Triều liệt đại phu. Ông cũng đóng góp sức mình vào công cuộc xây dựng đất nước vừa được giải phóng, thay vua viết nhiều chiếu, chế ban bố cho thần dân. 2.2 TÁC PHẨM BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO Mở đầu bài cáo, tác giả nêu lên một tư tưởng lớn làm nguyên lí cho toàn bài. Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. Đó là tư tưởng nhân nghĩa, nhưng không phải nhân nghĩa chung chung, mà gắn với mục đích “yên dân”, “trừ bạo”, mang nội dung yêu nước, thương dân. Nó đã được chứng minh bằng sự tồn tại của nước Đại Việt ta như một chân lí lịch sử: Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu, Nước non bờ cõi đã chia, Phong tục Bắc Nam cũng khác; Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập; Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; Mỗi bên hùng cứ một phương; Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, Song hào kiệt thời nào cũng có. Có đủ tất cả các yếu tố của một quốc gia độc lập tự chủ : quốc hiệu (tên nước), văn hiến, lãnh thổ, phong tục, con người và đặc biệt là “nền độc lập” đã được xây dựng từ bao đời.Những lời văn mạnh mẽ, dứt khoát, có ý khẳng định chắc chắn, NgTrãi đã khẳng định một cách hùng hồn chủ quyền dân tộc.NgTrãi nêu bật lịch sử các triều đại bằng phép liệt kê, song hành, đã khẳng định lịch sử dài lâu của đất nước, đồng thời khẳng định tư thế độc lập ngang hàng của ĐViệt với các triều đại phong kiến phương Bắc. Nó còn như khẳng định về hậu quả thất bại tất yếu của kẻ thù khi chúng xâm phạm đến độc lập chủ quyền của dân tộc ta: Vậy nên: Lưu Cung tham công nên thất bại; Triệu Tiết chí lớn phải vong thân; Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Nguyễn Trãi đã cho ta thấy những chiến công oanh liệt của dtộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn tự do của Tổ quốc.Cách nêu dẫn chứng rõ ràng cụ thể bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào dtộc.
Nói về nước Đại Việt ta, cảm hứng của tác giả tràn đầy niềm tự hào dân tộc. Câu văn biền ngẫu sóng đôi, cân xứng tạo nên giọng điệu trang nghiêm, khẳng định khi nói về quốc gia độc lập, tự chủ: và đặc biệt nghệ thuật so sánh lại càng tôn cao và khẳng định thêm điều đó: Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại Triệu, Đinh, Lí, TRần của VN ngang hàng với các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên của Trung Quốc. Không có một niềm tự hào dân tộc mãnh liệt thì cũng khống thể có một sự so sánh như vậy. Đoạn 2 là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác của quân xâm lược nhà Minh.Nguyễn Trãi đã lột trần âm mưu thâm độc của chúng: lợi dụng nhà Hồ chính sự đổ nát, giặc mInh đã thừa cơ vào cướp nước ta: Nhân họ Hồ chính sự phiền hà Để trong nước lòng dân oán hận. Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa …….
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế Gây binh kết oán trải hai mươi năm. Tác giả khẳng định đó là tội ác “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” và kể ra những hành động tội ác man rợ của chúng. Nào là tàn sát, giết hại nhân dân kể cả các em nhỏ cũng không tha: Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn- Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ”.Rồi chúng lại bóc lột dân ta bằng thuế khoá nặng nề, ra sức vơ vét tài nguyên đất nước, đẩy người dân đến chỗ đường cùng, thậm chí tính mạng không được đảm bảo: Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng. Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc. Còn dã man, tàn bạo đến mức: Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng. Nặng nề những nỗi phu phen, Tan tác cả nghề canh cửi. Hậu quả bọn chúng để lại thật là tàn khốc: gia đình tan nát, vợ mất chồng, con cái thì nheo nhóc, muôn loài bị phá huỷ, tiêu diệt, sản xuất thì trì trệ, nhân dân khổ cực. Để nêu rõ tội ác của quân xâm lược, tác giả đã dụng phương pháp liệt kê có chọn lọc, sử dụng những câu văn giàu hình tượng, giọng văn thay đổi linh hoạt, phù hợp với cảm xúc.Lúc thì tỏ ra căm phẫn, tức giận đến thấu xương cái lũ xâm lược tàn bạo, lúc thì lại thể hiện sự xót xa, đau đớn cho nhân dân ta. Ở phần đầu bản cáo trạng là một hình ảnh đầy ấn tượng: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn- Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”, để rồi két thúc bằng một hình ảnh có giá trị tổng kết cao: “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội- Dơ bẩn thay, nước Đông hải không rửa sạch mùi”. Và cuối cùng là lời phán quyết nghiêm khắc, đanh thép của nhân dân ta về tội ác của chúng: Lẽ nào trời đất dung tha Ai bảo thần nhân chịu được? Năm 1406 quân Minh xâm lược nước ta. Ách đô hộ của giặc Minh đè nặng lên các tầng lớp nhân dân ta. Năm 1416, ở đất Lam Sơn- Thanh Hoá, Lê Lợi và 18 người cùng chí hướng đã làm lễ ăn thề ở Lũng Nhai, nguyện sống chết cùng nhau đuổi giặc cứu nước. Nguyễn Trãi- một tài năng xuất chúng, nổi bậc lên trong hàng ngũ tướng lĩnh nghĩa quân Lam Sơn. Ông đã góp công lớn trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh. Trong niềm hân hoan của cả dân tộc, tháng 2 năm 1428 Bình Định Vương Lê Lợi giao cho Nguyễn Trãi viết “ Bình Ngô đại cáo” tuyên bố cuộc đấu tranh chính nghĩa đã thắng lợi. “Bình Ngô đại cáo” thắm đậm tư tưởng nhân nghĩa, là cội nguồn sức mạnh của cuộc kháng chiến. Nhân nghĩa là tư tưởng của dân tộc được hình thành và phát triển xuyên suốt chiều dài lịch sử. Mục đích của nhân nghĩa đã được khẳng định là “cốt để yên dân”, là bảo vệ hạnh phúc của nhân dân. Hạnh phúc lớn nhất của dân là được sống trong môi trường hoà bình, yên ổn làm ăn, không lâm vào cảnh chết chóc ,đau thương. “Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trứơc lo trừ bạo” Nhân nghĩa là tinh thần vì dân, là chính nghĩa của nhân dân, mang bản sắc dân tộc. Nhân nghĩa ở đây không phải là lòng thương người một cách chung chung, mà nhân nghĩa là để an dân, trừ bạo ngược để cứu nước,cứu dân. Muốn yên dân thì khi có giặc ngoại xâm trước tiên phải đứng lên chống giặc “trước lo trừ bạo”. Nhân nghĩa gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc: “ Nước Đại Việt ta từ trước. Vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Núi sông bờ cõi đã riêng. Phong tục Bắc Namcũng khác” là niềm tự hào dân tộc "…hào kiệt đời nào cũng có”, là truyền thống yêu chính trực, ghét gian tà, căm thù sâu sắc bọn giặc cướp nước, bán nước: “Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây vạ Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ” Nhân nghĩa còn là sự chia sẻ, cảm thông với nổi khổ của người dân mất nước:
“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nổi rừng sâu nước độc…. Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng” Nhân nghĩa là cội nguồn của cuộc sống. Có nhân nghĩa thì thành công , không nhân nghĩa thì thất bại. Bọn giặc Minh xâm lược đã: “Dối trời, lừa dân đủ muôn nghìn kế Gây binh, kết oán trãi hai mươi năm Bại nhân nghĩa, nát cả đất trời” Họ không có nhân nghĩa vì vậy cho nên phải chịu cảnh “ thây chết đầy đường” “máu trôi đỏ nước” “ nhơ để ngàn năm” Nhân nghĩa làm nên sức mạnh, vì nhân nghĩa quân ta đã: “Đánh một trận, sạch không kình ngạc, Đánh hai trận, tan tác chim muông” Quân ta chiến thắng vì đã: “Đem đại nghĩa thắng hung tàn Lấy chí nhân thay cường bạo” Nhân nghĩa còn là tinh thần yêu chuộng hoà bình, công lý, tình nhân loại , là sự hiếu sinh, hiếu hoà, sự độ lượng bao dung thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả của dân tộc ta, đã mở đường hiếu sinh cho kẻ thù khi chúng đã bị bại vong: “Tướng giặc bị cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng. Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh Mã Kỳ, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền,ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc.Vương Thông , Mã Anh phát cho vài nghìn cổ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.” Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng. Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức” Cuộc kháng chiến chống quân Minh diễn ra lâu dài với muôn vàn khó khăn gian khổ nhưng thể hiện tinh thần quật khởi của một dân tộc anh hùng.
Tư tưởng nhân nghĩa trong “ Bình Ngô đại cáo ” thể hiện tinh thần nhân bản và giá trị nhân văn sâu sắc, là kim chỉ nam cho đường lối chính trị và quân sự của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng đó đã giúp cho Lê Lợi giương cao ngọn cờ chính nghĩa, hiệu triệu quần chúng tham gia đánh đuổi giặc Minh. Nó biến thành sức mạnh to lớn đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. - Tư tưởng nhân nghĩa: Việc nhân dân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo Đập lại luận điệu của quân Minh Quá trình cuộc kháng chiến : Đường lối chiến lược, chiến thuật ở đây bao trùm từ đường lối cứu nước đến phép dùng binh đánh trận. “ Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh Ngẫm trước đến nay lẽ hươngphế đắn đo càng kĩ” Suy nghiệm về lẽ hưng phế của các triều đại ở nước ta từ thế kỉ thứ X đến bây giờ để rút ra những kinh nghiệm : muốn chiến thắng kẻ thù phải biết dự vào toàn dân, nhân dân lao động. Đó chính là cái gốc để cho triều đại được bền vững lâu dài. Cái đường lối chiến lược, chiến thuật đó được thể hiện khá cụ thể : “ Thế trận xuất kì lấy yếu chống mạnh Dùng quân mai phục lấy ít địch nhiều” “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn Lấy chí nhân để thay cường bạo” Giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến: Giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến nghĩa quân Lam Sơn gặp rất nhiều khó khăn, thiếu nhân lực, thiếu người tài giỏi, thiếu lương thực, nhiều khi bị quân Minh Đánh cho tan tác. “ Tuấn kiệt như sao buổi sớm ................................................ Khi Khôi Huyện quân không một đội” Giai đoạn sau của cuộc kháng chiến : Tuy gặp khó khăn, thất bại lúc ban đầu nhưng nhờ có tinh thần quyết tâm chiến đấu, “ Gắng chí khắc phục giang nan”, được nhân dân khắp nơi ủng hộ, tướng sĩ trên dưới một lòng, có đường lối chiến lược, chiến thuật đúng đắn nên nghĩa quân Lam Sơn càng đánh càng chiến thắngvang dội, không có sức mạnh nào có thể ngăn được sức tiến công vang dội như vũ bão của nghĩa quân: “Đánh một trận, sạch không kinh ngạc Đánh hai trận tan tác chim muông Nỗi gió to quét sách lá khô Thông tổ kiến phá toang đê vỡ” Chỉ trong vòng mười ngày mà nghĩa binh đã làm nên những kì tích anh hùng chưa từng có: “ Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu Ngày hăm nhăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẩn”. Cái hào khí ngất trời của Nguyễn Trãi còn thể hiện qua việc ông miêu tả sự thất bại thảm hại của quân Minh bằng cách dùng hình ảnh, từ ngữ sinh động, cụ thể đầy gợi tả như : “ Nghe hỏi mà thất vía”, “ Nín thở cầu thoát thân”, “ bêu đầu”, “ bỏ mạng”, “ Liễu Thăng cụt đầu”, “đại bại tử vong”. “ cùng kế tự vẩn”, “ lê gối vâng tờ tại tội”, “ trói tay để tự xin hàng” ....nhất là đã gọi vua nhà Thanh là “ thằng nhải con Tuyên Đức”. Chưa bao giờ cái hào khí dân tộc lại dâng cao như lúc này. Trong phần này, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi lại được khắc sâu thêm một lần nữa. Ông đặt quyền lợi của nhân dân, đất nước lên trên hết nên đã tha chết cho kẻ thù khi chúng bị thất bại, còn cấp thuyền cấp ngựa cho chúng về nước: “ Thần Vũ chẳng giết hạ, thể lòngtrời ta mở đường hiếu sinh Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền Ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cổ ngựa Về đến nước mà vẫn tim đập, chân run Họ đã tham sống, sợ chết mà hoà hiếu thực lòng Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức”. Phần kết thúc. Nguyễn Trãi đã thay mặt Lê Lợi tuyên bố kết thúc cuộc kháng chiến: Xã tắc từ đây vững bền Giang sơn từ đây đổi mới Kiền khôn bỉ mà lại thái Nhật nguyệt hối mà lại minh. Đồng thời Nguyễn Trãi đã khẳng định quyền đôc lập, tự chủ lâu dài của đất nước: Muôn thuở nền thái bình vững chắc. Lịch sử sang trang, đất nước bước vào một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của hoà bình độc lập tự do : “ Một cổ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”
Đất nước Việt Nam tươi đẹp với mỗi tên đất tên làng đều gắn liền với một chiến công oanh liệt chống giặc ngoại xâm. Đó cũng là những cảnh vật nên thơ cho nguồn cảm hứng của các thi nhân. Đề tài quê hương đất nước luôn là niềm say mê của các thi nhân từ xưa đến nay. Có thể nói hiếm có nhà thơ nào lại không có một sáng tác về thiên nhiên đất hước. Trong cả một đề tài rộng lớn đó, văn học Việt Nam phải kể đến hai gương mặt nổi bật. Đó là hai nhà thơ Nguyễn Trãi và Nguyễn Khuyến. Ngoài ra còn có những tác giả như Trần Lâu, Phạm Sư Mạnh, Bà huyện Thanh Quan, Hồ Chí Minh.v.v... Các sáng tác của họ cũng là những đóng góp không nhỏ cho nền văn học nước nhà.
Tuy sống ở hai giai đoạn lịch sử khác nhau nhưng hai nhà thơ Nguyễn Trãi và Nguyễn Khuyến đều gặp nhau ở một điểm chung. Cả hai đều là những ông quan thanh liêm trong sạch đứng trước cuộc đời đen bạc, họ quay về bầu bạn với thiên nhiên, vui thú điền viên, lâm tuyền. Có thể nói phần lớn các sáng tác của hai nhà thơ đều tập trung vào một đề tài, đó là hình ảnh quê hương, đất nước. Những trang thơ viết về cảnh làng quê của hai người thật sinh động, vừa gần gũi bình dị cũng vừa thơ mộng, đẹp đẽ. Hình ảnh quê hương trong thơ văn Nguyễn Trãi hiện lên với một thảm cỏ trải dài suốt triền đê với màn mưa xuân giăng dày mọi lối; với con đường đồng mềm mại vắt qua đồng lúa vắng teo không một bóng người qua lại; với một con đò gối đầu trên bãi cát ngủ triền miên. Một tiếng cuốc kêu, một cơn mưa bụi làm rơi những cánh hoa xoan nhỏ. Những cảnh ấy tưởng chừng quá quen thuộc với mỗi người dân quê, vậy mà đối với Nguyễn Trãi cũng thành thơ, rất thơ là đằng khác:
Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn
Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan
(Cuối xuân tức sự)
Tiếng cuốc kêu vẳng đến thư phòng của tác giả. Khác với nhiều nhà thơ, tiếng cuốc trong thơ Nguyễn Trãi không gợi lên chút gì bi thương, khắc khoải. Tiếng cuốc trong thơ ông là một âm thanh quen thuộc của làng quê. Và lần này có đặc biệt hơn: tiếng cuốc báo hiệu xuân đã đi qua và hạ sắp đến. Một ngày xuân muộn ở làng quê sao mà yên tĩnh, vắng vẻ quá chừng. Chỉ có tiếng cuốc kêu trong không gian, âm thanh nhỏ nhưng vẫn chiếm lĩnh cả một khoảng không rộng lớn. Nhưng đó chỉ là sự yên tĩnh của bên ngoài, còn thiên nhiên bên trong vẫn có sự hoạt động biến chuyển không ngừng. Mùa xuân đang dần dần chuyển sang mùa hạ, ban đầu là tiếng cuốc và sau đó là hoa xoan và dần dần là những tín hiệu của mùa hè sẽ thay thế cảnh vật mùa xuân. Tác giả như đang lắng nghenhững bước chuyển mình của thiên nhiên, dù rất nhỏ thôi trong không gian yên ắng. Nhà thơ đã phát hiện ra nét đẹp thật tinh tế của loài hoa bình dị, đơn sơ. Một cơn mưa nhỏ, nhỏ đến nỗi người ta không cảm nhận được những giọt mưa mà chỉ thấy được những nụ xoan dần dần hé nở, sáng bừng rồi theo cơn mưa rắc xuống từng đợt, từng đợt trắng sân nhà. Tưởng chừng đó là một trận mưa của hoa xoan. Tả mùa xuân đã tàn, và dù vẫn có cảnh hoa rụng, nhưng tác giả không gợi cho người đọc cảm giác của sự tàn úa mà vẫn gieo vào lòng người một niềm vui. Mùa xuân đã qua đi và một mùa mới sắp tới. Tâm hồn của tác giả cũng vậy, vẫn có nỗi băn khoăn của một viên quan ở ẩn định tạo lập cho mình một thế giới riêng, thoạt đầu là “suốt ngày nhàn khép phòng văn” nhưng sau đó, thiên nhiên bên ngoài đã vẫy gọi tác giả khiến cho ông không cưỡng nổi, phải mở tung cánh cửa cho thiên nhiên ùa vào trong mắt mình. Không gian nhỏ của thi nhân đã hòa nhập vào trong không gian lớn của vũ trụ.
Nếu Nguyễn Trãi nức tiếng nhất với những bài thơ mùa xuân ở làng quê thì Nguyễn Khuyến lại nổi tiếng với những bài thơ thu của vùng đồng chiêm trũng. Những bức tranh ấy đều có vẻ đẹp nên thơ, mơ mộng nhưng cũng là khung cảnh thu bình dị, rất thực của thiên nhiên làng quê. Một cái ao nhỏ nước trong vắt đến tận đáy, trên mặt nước đậu một chiếc thuyền câu. Cũng là mặt ao đó nhưng màn sương phủ dày trên mặt nước khi buổi sáng, hay một mặt ao lóng lánh ánh trăng vàng trong đêm trăng. Những khung cảnh đầy thi vị đó đã được thu nhận vào tầm mắt của tác giả. Và cũng giống như Nguyễn Trãi, bức tranh ấy rất tĩnh lặng, một âm thanh nhỏ cũng làm xao động cả không gian rộng lớn:
Sóng biếc theo làn hơi gợi tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
(Câu cá mùa thu)