Căn cứ vào ghi chép trong các thư tịch cổ thì Triệu Đà vốn là người Hán, quê ở huyện Chân Định (tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc), đất nước của Triệu thời Chiến Quốc. Năm 208 TCN, sau khi thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược địa bàn của các tộc người Âu Việt và Lạc Việt, nhà Tần cũng cắt đặt quan lại cai trị, thành lập chính quyền cấp quận và cấp huyện ở những vùng mới chiếm được ở phương Nam trong đó Nhâm Ngao được cử giữ chức Quan úy (chức võ quan) quận Nam Hải còn Triệu Đà làm quan lệnh huyện Long Xuyên.
Hello bạn bạn có thể tham khảo câu trả lời sau ạ :
Triệu Vũ Đế (chữ Hán: 趙武帝, 257 TCN - 137 TCN), húy Triệu Đà (chữ Hán: 趙佗). Triệu Đà vốn là người Trung Hoa (sau này gọi là người Hán) thời nhà Tần, quê ở huyện Chân Định (真定), quận Hằng Sơn (恒山) (ngày nay là huyện Chính Định (正定), tỉnh Hà Bắc), miền Bắc Trung Quốc.[1]
Ông là võ tướng theo lệnh Tần Thuỷ Hoàng dẫn quân xuống chinh phạt miền nam (khi đó là lãnh thổ của các bộ tộc Bách Việt). Ông chiếm được nhiều vùng lãnh thổ (nay là Quảng Đông, Quảng Tây và miền Bắc Việt Nam) nhưng nhà Tần ở Trung Hoa đã diệt vong. Nhận thấy triều đình trung ương đã sụp đổ, Triệu Đà bèn tách ra cát cứ, xưng Đế và lập nên nước Nam Việt và cai trị nước Nam Việt suốt giai đoạn 207-137 TCN[1]. Sau khi nhà Hán đã làm chủ Trung Hoa, khi về già, Triệu Đà đã quyết định bỏ việc xưng Đế, quy phục nhà Hán (nhưng vẫn xưng Hoàng Đế ở trong Nam Việt). Triệu Đà viết thư nhờ Lục Giả gửi cho vua Hán, trong thư ông đã công nhận rằng mình là người Trung Hoa, và nhà Triệu là chư hầu phục vụ cho nhà Hán, thay mặt vua Hán để cai trị dân "Man Di" phía Nam (chỉ người Việt thời đó).[2]
Triệu Đà vốn là quan võ của nhà Tần, rồi được Tần Thủy Hoàng bổ nhiệm làm Huyện lệnh huyện Long Xuyên trong quận Nam Hải mà Nhâm Ngao làm Quận uý. Triệu Đà lập nên nước Nam Việt, độc lập với nhà Tần, cai trị nước Nam Việt 67 năm, từ năm 203 trước Công nguyên tới năm 137 trước Công nguyên, rồi truyền ngôi cho cháu là Triệu Muội. Triệu Đà thực thi chính sách "hoà tập Bách Việt" nhằm thống nhất các bộ tộc Bách Việt và chính sách "Hoa - Việt dung hợp" nhằm đồng hoá dân người Hoa và Lĩnh Nam tại lãnh thổ nước Nam Việt.
Theo khảo sát dân số thì cuối thời Nam Việt, cả nước này có 1,3 triệu dân, trong đó có khoảng 100 ngàn người Hoa di cư từ phía Bắc. Tuy chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng người Hoa nắm giữ hầu hết chức vụ chủ chốt trong triều đình Nam Việt.[16] Về sau triều đình có tuyển thêm người bản xứ như Lữ Gia, nhưng con số này vẫn rất ít, và cũng chỉ tuyển những người tinh thông chữ Hoa, biết nói tiếng Hoa (tức là đã "Hán hóa") mà thôi. Như vậy cho thấy nhà Triệu vẫn coi mình là triều đại của người Hoa, không coi người Việt là ngang hàng với người Hoa.
Chúc bạn học tốt !
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư thì ông là người huyện Chân Định, quận Hoằng Sơn, nay là huyện Chính Định, tỉnh Hà Bắc.
Vì vậy, nhiều khả năng ông là người gốc Hán.