ủa cậu cũng học chương trình vnen ha ??????
Câu 1.
Câu chuyện được kể diễn ra tại lớp học ở một xã thuộc vùng An dát của nước Pháp. Thời gian sau cuộc chiến tranh Pháp – Phổ, nước Pháp thua trận phải cắt vùng An dát cho nước Phổ. Theo lệnh của chính quyền Phổ, trường học ở đây không được dạy tiếng Pháp nữa. Buổi học cuối cùng là buổi học bằng tiếng Pháp cuối cùng, chứ không phải là buổi học kết thúc niên học.
Câu 2.
Truyện được kể theo lời chú bé Phrăng, ở ngôi thứ nhất. Truyện còn có những nhân vật khác như bác phó rèn Oát – stơ cùng cậu học việc., cụ già Hô – de, bác phát thư, những người dân làng, thầy giáo Ha – men, người em gái của thầy giáo, các em học sinh.
Người gây ấn tượng nổi bật nhất là thầy giáo Ha – men, người đã phụng sự đất nước 40 năm bằng nghề dạy học, người đã thể hiện sâu sắc tình yêu nước Pháp bằng cả tấm lòng.
Câu 3.
Vào sáng hôm diễn ra buổi học cuối cùng, chú bé Phrăng đã nhìn thấy những điều khác lạ. Trên đường đến trường : có nhiều người đứng trước bảng dán cáo thị. Trường học không ồn ào với những âm thanh quen thuộc mà bình lặng y như một buổi sáng chủ nhật. Trong lớp, không khí trang trọng, thầy Ha – men mặc lễ phục, thầy dịu dàng chứ không giận dữ. Có thêm cụ Hô – de, bác phát thư và nhiều người dân làng ngồi ở cuối lớp.
Những điều đó báo hiệu đây là buổi học bằng tiếng Pháp cuối cùng như là điều được niêm yết ở trụ sở xã.
Câu 4.
Đối với việc học tiếng Pháp, Phrăng rất ngại. Cậu thích rong chơi hơn là học những quy tắc phân từ.
Khi không thuộc bài, Phrăng rất ân hận. Cậu bé mong ước có thể đọc được tiếng Pháp “ thật to, thật dõng dạc, không phạm một lỗi nào”. Từ không thích, cậu bỗng cảm thấy thân thiết với những cuốn sách tiếng Pháp như “ người bạn cố tri”. Và Phrăng thấy bài giảng của thầy rất dễ hiểu. Cậu thấy yêu mến người thầy giáo nghiêm khắc Ha – men. Từ việc ngại, sợ tiếng Pháp và sợ thầy giáo, Phrăng chăm chú, thích thú, cố gắng học tiếng Pháp một cách tự giác.
Câu 5.
Nhân vật thầy giáo Ha – men trong buổi học cuối cùng :
- Thầy mặc bộ lễ phục chỉ dùng trong những ngày đặc biệt, khi có thanh tra hoặc phát thưởng : Áo rơ – đanh – gốt màu xanh lục diềm lá sen gấp nếp mịn và đội mũ tròn bằng lụa đen thêu.
- Thầy nói năng với học sinh dịu dàng, không giận dữ, quát mắng. Thầy kiên nhẫn giảng bài, chuẩn bị bài học rất chu đáo.
- Thầy ca ngợi tiếng Pháp, tự phê bình mình và mọi người đã có lúc sao nhãng việc học tập và dạy tiếng Pháp. Thầy coi tiếng Pháp và vũ khí, là chìa khóa của chốn lao tù.
- Buổi học kết thúc, thầy xúc động mạnh, người tái nhợt, nghẹn ngào, không nói được hết câu. Thầy đã viết thật to lên bảng : “ Nước Pháp muôn năm !”.
=>Thầy ha – men là người yêu nghề dạy học, yêu tiếng mẹ đẻ và là người yêu nước sâu sắc.
Câu 6.
Một số câu văn có sử dụng phép so sánh
- Thông thường, bắt đầu buổi học, tiếng ồn ào như vỡ chợ vang ra ngoài phố…
- …dân làng ngồi lặng lẽ giống như chúng tôi, cụ già Hô – de, trước đây là trưởng làng với cái mũ ba sừng, bác phát thư trước đây, và nhiều người khác nữa.
- …chừng nào học vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù.
- Những tờ mẫu treo trước bàn học trông như những lá cờ nhỏ bay phấp phới xung quanh lớp.
- …,chúng đang cặm cụi vạch những nét sổ với một tấm lòng, một ý thức, như thể cái đó cũng là tiếng Pháp…
Những so sánh này làm cho lời văn thêm hình tượng cụ thể, tăng sức gợi cảm cho sự diễn đạt, biểu đạt tư tưởng, tình cảm sâu sắc.
Câu 7.
Câu nói của thầy Ha – men : “…khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ được tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù…”. Câu nói này khẳng định giá trị to lớn của tiếng nói dân tộc. Còn giữ được tiếng nói là còn phương tiện để đấu tranh giành độc lập tự do, thoát khỏi vòng nô lệ. yêu quý, học tập, giữ gìn tiếng nói của dân tộc là sự biểu hiện sâu sắc của lòng yêu nước.