- Về chính trị ông cải tổ hàng ngũ võ quan, thay thế dần bằng những người có tài năng và thân cận với mình, đổi tên một số đơn vị hành chính.
- Về quân sự ông thực hiện các biện pháp nhằm tăng cường, củng cố quân sự và quốc phòng để đề phòng giặc ngoại xâm.
- Về kinh tế, xã hội: Ông đặt lại hạn nộp đất canh tác. Hạn chế hạn nô.
- Về văn hóa, giáo dục : Ông bắt các nhà sư chưa đến 50 tuổi phải hoàn tục. Sửa đổi chế độ thi cử
+ Giai đoạn đầu nhà Trần, thể chế chính trị vững chắc là nhờ “vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục”. Vua anh minh, cần mẫn, tôi tận tụy, liêm trung. Chính lệnh “lúc thường thì khoan sức cho dân’. Điều này đã tạo cho nhà Trần một sự hưng thịnh vào giai đoạn đầu.
+ Từ khi Trần Dụ Tông lên ngôi:
Đối với vua thì ăn chơi vô độ khiến triều đình bạc nhược.Vua Dụ Tông sai đào hồ lớn ở vườn ngự, chất đá làm núi, bắt đào kênh thông với sông lớn để lấy nước vào làm chổ vui chơi,… Trộm cướp không trừa ai, cướp bóc cả vua (ví dụ: năm 1366,vua Dụ Tông ngự thuyền nhỏ đến chơi nhà Thúy úy Trần Ngô Lang ở hương Mễ Sở, đến canh ba mới về. Khi tới sông Chữ Gia, bị cướp mất ấn báu).
Điều này đã làm xuất hiện hàng loạt tên nịnh thần và việc triều chính bị lũng đoạn đã gây ra những biến cố lớn như: Chúa Chiêm là Chế Bồng Nga đem dâng lên vua 10 mâm vàng. Tử Bình ỉm đi, cướp làm của mình, nói dối là Bồng Nga ngạo mạn vô lễ, nên đem quân đánh. Vua giận lắm. Quyết ý thân chinh. Phải chăng đây cũng là một nguyên nhân khiến quan hệ Việt - Chiêm càng xấu đi trong giai đoạn cuối Trần. Đồng thời trong triều không có vua càng tạo cơ hội cho bọn nịnh thần lộng hành.
Trước hoàn cảnh ấy những những hiền thần đã nhiều lần dâng sớ để khuyên vua có những sự điều chỉnh mà vua không chịu nghe như Chu Văn An khuyên Dụ Tông không nghe bèn dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần…Sớ dâng lên nhưng không dược trả lời nên ông đã trả ấn từ quan về quê. Còn Trần Nguyên Đán thì lui về Côn Sơn trí sĩ để tránh mối họa sau này.
Khủng hoảng cung trình cũng đã xẩy ra nghiêm trọng đến hai lần:
Lần thứ nhất là khi Hiến từ Hoàng Thái Hậu đưa Dương Nhật Lễ, con của người làm trò (tên là Dương Khương) lên ngôi. Nhật Lễ tiếm vị, rượu chè dâm dật, hàng ngày chỉ rong chơi, thích các trò hát xướng, muốn đổi lại họ dương. Nhà trần mất ngôi hơn một năm (từ tháng 6 – 1369 đến tháng 10 – 1370). Đến tháng 10 – 1370, cuộc hội quân của hoàng gia có Nghệ Tông, Trần Nguyên Đán, Cung tuyên Vương Kính cùng công chúa Ngọc Tha…tham gia, đã từ Đại Lại Thanh Hóa kéo về Thăng Long dành lại ngôi vua.
Lần thứ hai là sau khi Duệ Tông đi đánh Chiêm Thành bị tử trận, Đế Hiện lên thay rồi bị phế (Phế Đế). Thuận Tông lên ngôi rồi bị giết. Thiếu Đế lên thay được hai năm, nhà Trần bị diệt. Ngôi vua về tay Hồ Quý Ly.
+ Sự khủng hoảng kinh tế, văn hóa – xã hội
Cuối nhà Trần bộc lộ những mâu thuẫn:
Mâu thuẫn giữa yêu cầu tư hữu hóa ruộng đất đã được nhà nước Trần thừa nhận từ đầu thế kỷ XIII (khi nhà Trần cho phép bán ruộng công thành ruộng tư) với chế độ công hữu về đất đai vẫn được bảo tồn nghiêm ngặt. Điều này được thể hiện rõ ở việc bãi lệ “Sa châu tiệt cước” vào năm 1379.
Mâu thuẫn giữa sự chiếm hữu lớn về đất đai và sức lao động nô lệ gia đình (gia nô, nô tì của phong kiến) với sở hữu vừa và nhỏ của địa chủ bình dân và địa chủ quan liêu mới phát triển. Chính điều này đã dẫn đến đòi hỏi là sức lao động cần được giải phóng để tạo ra những người lao động tự do. Nhưng hoàn cảnh cuối thời Trần đã không đáp ứng được điều này.
Bao trùm nhất là mâu thuẫn giữa kinh tế hàng hóa – tiền tệ đã phát triển đến chừng mực nhất định trong thời thịnh Trần với kinh tế còn bảo lưu phương thức sản xuất châu Á có tính đặc thù Việt Nam là chế độ nô lệ gia đình, chế độ điền trang thái ấp của quý tộc và việc bảo tồn ruộng đất công hữu.
Do vua ăn chơi, không quan tâm đến phát triển kinh tế. Đồng thời lại thu thuế nặng nề nhất là vào thời Phế Đế như vào năm 1378 đang có việc dùng binh nhưng kho tàng trống rỗng. Đỗ Tử Bình kiến nghị thu mỗi hộ đinh nam 3 quan tiền. Vua đã nghe theo. Trước chỉ có thuế ruộng nay có cả thuế đinh. Đièu này đã làm cho những người nông dân đã khổ nay lại cành khổ hơn.Do đó đã diễn ra rất nhiều cuộc đấu trang của nông dân như khỡi nghĩa Ngô Bệ (khởi nghĩa tồn tại trong 10 năm),
+Khủng hoảng tư tưởng phong kiến:
Tư tưởng phong kiến mang nặng tàn dư phương thức sản xuất châu Á lấy phật giáo làm quốc giáo, từng phát huy tác dụng ỏe thời lý, thời thịnh trần nay không còn thích hợp với sự thay đổi của kinh tế - xã hội đang rơi vào khủng hoảng. chế độ phong kiến theo tống nho đang hình thành đã tấn công vào hệ tư tưởng phong kến quý tộc mà nghệ tông đã ra sức bảo vệ.
Nghệ Tông còn phê phán bọn tống nho có xu hướng phong kiến quan liêu là “bọn học trò mặt trắng” : khoảng năm đại trị, bọn học trò mặt trắng được dùng, không hiểu ý nghĩa sâu xa của việc lập pháp, đem phép củ của tổ tông thay đổi theo tục phương bắc cả, như về y phục, âm nhạc,…Thật không kể xiết.
Nhưng dầu Nghệ Tông có phê phán thì khổng giáo vẫn ngày càng đóngvai trò quốc giáo. Trong khi đó, phật giáo lại luôn bị các nhà khoa bảng tống nho chỉ trích. Tiêu biểu là sự chỉ trích của trương hán siêu và lê quát.
Năm 1354, Trương Hán Siêu đã từng phê phán phật giáo đề cao nho giáo: “chùa bỏ ooiflaij xây, đã chẳng phải ý muốn của ta. Dựng bia rồi khắc chữ, ta biết nói chuyện gì. Ngày nay thánh triều muốn truyền bá phong hóa nhà vua, để chấn hưng phong tục đang bị suy đồi, dị đoan đáng phải truất bỏ, thánh đạo nên được phục hưng. Làm sĩ đại phu, không phải đạo nghiêu thuấn thì không trình bày, không phải đạo khổng tử thì không trước thuật. thế mà cứ bo bo lải nhải chuyện phật, ta định lừa dối ai đây?”
Sự phát triển kinh tế xã hội kể trên đã dẫn đến một tất yếu là phong kiến quan liêu tống nho sẽ thắng phong kiến quý tộc phật giáo.
+Yếu tố chủ quan
Sử cũ chép lại lại lịch của Hồ Quý Ly không rõ ràng về năm sinh và năm mất, nhưng lại hgi khá đầy đủ những chi tiết về nhân vật Hồ Quý Ly trên chính trường Trần mạt vào cuối thế kỷ XIV và đầu thế kỷ XV.Ông tổ của Quý Ly là Hồ Hưng Dật, người tỉnh Chiết Giang – Trung Quốc. Từ đời Ngũ Quý (907-959) sang bên ta, lập ấp tại làng Bào Đột thuộc Diễn Châu (Nghệ An) sau chuyển ra Thanh Hóa, làm con nuôi của Lê Huấn.
Tháng 3 năm 1371 Hồ Quý Ly được phong làm Khu mật viện Đại sứ. Đến tháng 9 cùng năm lại được phong làm Trung tuyên Quốc thượng hầu.
Trong tình đất nước luôn bị Chiêm Thành đánh phá thì yêu cầu đòi hỏi một người có khả năng và quyền lực để nhận lãnh sứ mệnh giúp Vua làm việc nước, chống ngoại xâm và người đó chính là Hồ Quý Ly. Ông xuất hiện như là một người trung hòa trong mâu thuẫn giữa phong kiến quý tộc và phong kiến quan liêu, bởi vì ông vừa có vị trí cao trong hàng ngũ phong kiến quý tộc vừa có vị trí cao trong hàng ngũ phong kiến quan liêu. Là quý tộc ông đang là người có quyền thế nhất trong đám hoàng thân quốc thích, có hai bà cô là Hoàng hậu vợ Minh Tông, vợ Quý Ly lại là Công chúa; là quan liêu, ông thuộc giới quan liêu ngoại tộc, có tinh thần cải cách, đã có một số thể nghiệm được giới quan liêu chấp nhận.
Họa ngoại xâm
Bắt đầu từ việc triều Minh coi Đại Việt là cảu mình: Năm 1370, cho Diêm Nguyên Phục đến tế thần núi Tản Viên và các thủy thần sông Lô…Vào kinh thành nước ta làm lễ tế xong khắc bài văn vào bia đá ghi việc đó.
Tiếp theo là các yêu sách như “Đòi Đại Việt cấp lương cho binh lính Minh đóng ở Lâm An (Vân Nam). Lần này vua Trần sai vận tải 5000 thạch lương đưa đến đầu địa phận huyện Thụy Vĩ (thuộc tỉnh Lào Cai) giao nộp. trong chuyến vận tải này, quan quân ta vì nhiễm lam sơn chướng khí, bị bệnh chết khá nhiều. Đến năm 1385, nhà Minh lại sai sứ sang đòi ta nộp 20 nhà sư. Vua ta phải lo tuyển đủ để đưa sang Kinh Lăng giao nộp.
Lập lại âm mưu của nhà Nguyên một trăm năm trước, nhà Minh lại đòi mượn đường nước ta đi đánh Chiêm Thành và đòi nhà Trần phải cung cấp đầy đủ cho chúng 50 thớt voi, đặt các cung trạm dọc đường từ phủ Nghệ An trỏ ra, ở mỗi trạm đều phải có sẵn lương thảo cho voi trên đường sang Vân Nam.
Đụng độ với Chiêm Thành diễn ra dồn dập chưa từng có. Nếu từ cuộc Trần Anh Tông đưa quân chinh phạt người Chiêm “phản trắc” năm 1312 đến hết năm 1341 khi Dụ Tông lên ngôi, trong khoảng 30 năm chỉ có hai lần phải đi chinh phạt Chiêm Thành (một của Huệ Vũ Vương vào năm 1318 và của Huệ Túc Vương vào năm 1326), thì từ cuộc cử quân đi đánh Chiêm Thành nhằm đưa Chế Mỗ về nước nhưng không thành công vào năm 1353 trở đi đến cuộc đánh thắng Chế Bồng Nga vào năm 1390, trong khoảng gần 40 năm mà đã có tới mười sáu lần quân Đại Việt đụng độ với quân Chiêm Thành. Trong đó có ba lần quân Chiêm Thành đã đánh vào tận thành Thăng Long. Hai lần vua tôi phải bỏ thành lánh nạn (1371,1383) – một điều chưa bao giờ diễn ra trong quan hệ Đại Việt – Chiêm Thành.
Mâu thuẫn sâu sắc giữa nho sĩ và quý tộc phong kiến. Tầng lớp Nho sĩ lúc này đang phát triển, trong khi quý tộc phong kiến lại kìm hãm sự phát triển đó. Quý tộc phong kiến nắm một lượng lớn ruộng đất và nông nô, kìm hãm sự phát triển của xã hội
Phần II: NỘI DUNG CỦA CUỘC CẢI CÁCH
I. Cải cách hành chính
Cùng với quá trình đi lên con đường chính trị Hồ Quý Ly từng bước thực hiện những cải cách hành chính trên một số lĩnh vực
Về tổ chức hành chính: Từ năm 1375, khi được giao chức tham mưu quân sự, Quý Ly đã đề nghị chọn các quan viên, người nào có tài năng, luyệ tập võ nghệ, thông hiểu thao lược thì không cứ là tôn thất, đều cho làm tướng coi quân.
Từ năm 1397, Hồ quý Ly đã đổi một số lộ ở xa thành trấn như: Thanh Hóa đổi thành trấn Thanh Đô, Quốc Oai thành trấn Quãng Oai, Diễn Châu đổi thành trấn Vọng Giang,… và nâng một số châu lên thành lộ. Ở các lộ thống nhất việc chỉ huy quân sự và hành chính trong tay những quan chức gọi là Đô hộ, Đô thống, Tổng quản do các đại thần nắm. Các lộ vẫn đặt chánh, phó An phủ sứ như cũ, ở phủ đặt chánh, phó Trấn phủ như cũ; ở châu đặt Thông phán và Thiên phán; ở huyện đặt lệnh úy và chủ bạ, bỏ đại tiểu, tư xã và giữ giáp như cũ. Ở các trấn việc việc cai trị nặng nề mang tính chất quân sự. Để tăng cường giao thông liên lạc giữa trung ương và địa phương, các hệ thống trạm dịch được bổ sung. Để bảo đảm an ninh ở mỗi lộ có đặt chức liêm phóng sứ- một chức quan chuyên trông coi việc dò xét tình hình, trông coi bộ máy mật thám và dò la tin tức. Đồng thời quy định chế độ làm việc: “lộ coi phủ, phủ coi châu, châu coi huyện. Phàm những việc hộ tịch, tiền thóc, kiện tụng dều làm gộp một sổ của lộ, đến cuối năm báo lên sảnh để làm bằng mà kiểm xét.
Khu vực quanh thành Thăng Long được Hồ Quý Ly đổi thành Đông Đô lộ do phủ đô hộ cai quản. Hồ quý Ly cho dời đô về An Tôn (Tây Đô). Cùng năm này Hồ Quý Ly cho nhân dân xây kinh đô mới ở An Tôn( Vĩnh Tôn- Thanh Hóa), để lại cho đời sau một công trình kiến trúc lớn, tục gọi là thành nhà Hồ.
Hồ Quý Ly cũng định cách thức mũ và phẩm phục của các quan văn võ: Nhất phẩm màu áo tía, nhị phẩm áo màu đại hồng, tam phẩm áo màu hoa đào, tứ phẩm màu lục, ngũ phẩm trở xuống màu xanh biếc. Chế độ Thái thượng hoàng được bãi bỏ cuối thời trần, nhưng đến khi nhà trần thành lập, năm 1404 Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương và tự xưng là Thái Thượng hoàng.
II. Cải cách quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, chủ yếu là quan hệ ruộng đất bằng chính sách “hạn điền”
Mục tiêu của hạn điền là hạn chế chiếm hữu lớn về đất đai của quý tộc phong kiến:
Chiếm hữu lớn về ruộng đất của nhà Trần vừa là do phân phong, vừa là do chiếm dụng: “Trước kia các nhà tôn thất thường sai nô tỳ của mình đắp đê bồi ở bờ biển để ngăn nước mặn, sau hai, ba năm khai khẩn thành ruộng, cho họ lấy lẫn nhau và ở ngay đấy, lập ra nhiều đất tư trang”
Nay “Năm 1397, tháng 6 (âm lịch) xuống chiếu hạn chế danh điền (tức ruộng có người đứng tên”. Riêng đại vương và trưởng công chúa thì số ruộng không hạn chế.
Đến thứ dân thì số ruộng đến 10 mẫu. Người nào có nhiều thì tùy ý được lấy ruộng để chuộc tội. Bị biếm chức hay mất chức cũng được làm như vậy. số ruộng thừa phải hiến cho nhà nước”.
“Hạn điền đánh vào nền tảng kinh tế của quyền uy chính trị của quý tộc phong kiến.
Tuy vậy cải cách này cũng chỉ là nửa vời. Bởi vì trong khi xã hội đang có yểu cầu tư hữu hóa ruộng đất để phát triển kinh tế hàng hóa tiền tệ và giải quyết nạn thiếu đói, thì số ruộng đất ngoài 10 mẫu được lấy ra lại bị xung công “hiến cho nhà nước” biến thành quan điền”
Tuy việc đưa ruộng đất rút ra từ “hạn điền” vào sở hữu chung của nhà nước phong kiến quan liêu như vậy là tiến bộ hơn sở hữu lớn của phong kiến quý tộc, nhưng nó cũng chỉ có tác dụng củng cố quyền lực Nhà nước chứ không phát triển được kinh tế, cải thiện được dân sinh, tăng cường được khối đoàn kết dân tộc chống ngoaị xâm.
Phần náo đó là sự duy trì tính chất công hữu về ruộng đất của phương thức sản xuất châu Á mà đến thế kỷ XV đã quá lỗi thời.
III. Cải cách quan hệ sở hữu sức lao động bằng biện pháp “hạn nô”
Chính sách hạn nô được ban hành sau chính sách hạn điền 4 năm tức là vào năm 1401.
Chính sách hạn nô được tiến hành như sau:
Năm 1401, Hán Thương lập phép hạn chế gia nô: “Chiếu theo phẩm cấp được có số lượng khác nhau, còn thừa phải dâng lên nhà nước. Mổi tên được trả 5 quan tiền. Người nào đáng được có gia nô phải xuất trình chúc thư ba đời. Nô người nước ngoài thì không theo lệ này. Các nô đều thích vào trán để đánh dấu,…”
Mục tiêu của “hạn nô” cũng đồng nhất với “hạn điền” là đánh vào cả thế và lực của quý tộc phong kiến, như sử cũ ghi rõ: “Bấy giờ bọn sĩ đại phu tham phú quý, mong được lòng họ Hồ, đâng thư khuyên giết hại con cháu nhà Trần, giảm bớt số ruộng và nô để nén bớt thế lực của họ, như bọn Hoàng Hối Khanh, Nguyễn Hy Chu, Đồng Thức, còn lại thì nhiều vô kể”
Đây không chỉ giảm ưu thế về kinh tế, mà còn làm giảm sức mạnh quân sự của quý tộc. Sức mạnh quân sự của gia nô, nô tì thời Trần đả được biểu lộ trong cuộc chiến thắng Nguyên Mông, nay quý tộc có thể dùng sức mạnh đó đánh vào “kẻ tiếm ngôi” là Hồ Quý Ly”, buộc họ Hồ phải đề phòng. Mặt khác cũng để hạn chế sự rối loạn xã hội bởi vì trong khủng hoảng, nhiều gia nô đã bỏ chủ đi theo nông dân khởi nghĩa,..
Nhưng cũng như hạn điền, “hạn nô” cũng là chính sách nửa vời.
Đáng lẻ “hạn nô” là để giải phóng sức sản xuất xã hội, thì đây lại đưa nô xung công và xung vào quân dịch để cũng cố chế độ phong kiến quan liêu. Như vậy là vẫn duy trì tàn dư của phương thức sản xuất châu Á về công hữu hóa sức lao động, hạn chế sự phát triển kinh tế hàng hóa- tiền tệ. Cũng có thể nói như ngôn ngữ ngày nay là “hạn nô” đúng ở đầu vào nhưng sai ở đầu ra.
IV. Cải cách về quân sự
Trước sự lăm le xâm lược của nhà Minh, Hồ Quý Ly tích cực chấn chỉnh quân đội, xây thành, đóng thuyền chiến, v.v. Ông thường hỏi các quan:
Ta làm thế nào cho có 100 vạn quân để dánh giặc Bắc?
Để có nhiều quân, năm 1401 Hồ Quý Ly lập ra hộ tịch bắt mọi người cứ 2 tuổi trở lên phải kê khai ai ẩn náu phải phạt. Hộ tịch làm xong, số người từ 15 tuổi đến 60 hơn gấp mấy lần trước. Quân số do vậy tăng thêm nhiều.
Năm 1402, xét duyệt quân ngũ, chọn tráng đinh, cho người nghèo sung vào quân trợ dịch sau đó đổi thành quân bồi vệ,…
Hồ Quý Ly đặc biệt chú trọng luyện tập thủy binh để giữ mặt sông mặt biển. Ông cho đóng những con thuyền lớn bên trên lát ván để đi lại dễ dàng, khoang dưới cho người chèo chống rất lợi hại. ở các cửa bể và những nơi hiểm yếu trên các sông lớn, ông cho đóng cọc, hình thành những trận địa mai phục quy mô.
Năm 1405, chấn chỉnh lại tổ chức quân đội. Về biên chế quân đội, Quý Ly phân chia Nam Bắc gồm 12 vệ, Đông Tây phân ra 8 vệ. Mỗi vệ có 18 đội, mỗi đội có 18 người. Đại quân có 30 đội, trung quân 20 đội Mỗi doanh có 15 đội, mỗi đoàn có 10 đội. Ngoài ra còn 5 đội cấm vệ quân. Tất cả do một Đại tướng thống lĩnh.
Ông còn cho xây dựng thành trì mới, xây dựng kinh đô ở An Tôn (Vĩnh Tôn- Thanh Hóa)
V. Cải cách văn hóa, giáo dục
Hồ Quý Ly là vị vua Việt Nam đầu tiên quyết định dùng chữ Nôm để chấn hưng nền văn hóa dân tộc, cho dịch các kinh, thư, thi. Chính ông đã biên tập thiên "vô dật" để dạy cho con cái nhà quan và soạn ra 14 thiên Minh đạo dâng lên Trần Nghệ Tông khi trước.
Về mặt xã hội, ông thiết lập sở "Quản tế" (như ty y tế ngày nay). ở các lộ, ông đều lập một kho lúa gọi là "Thường bình", lấy tiền công mua lúa trữ vào, phòng những năm mất mùa đem bán rẻ cho dân chúng.
Khuyến khích sử dụng chữ Nôm, tự mình làm thơ chữ Nôm và giải nghĩa Kinh thi bằng chữ Nôm. - Phát huy tác dụng Nho giáo: Năm 1392 làm sách Minh Đạo (“Con đường sáng”) 14 thiên (cho Chu Công là tiên thánh, Khổng Tử là tiên sư", nêu ra “bốn chỗ đáng ngờ trong sách Luận ngữ".
Năm 1395 dịch thiên "Vô dật" (Không lười biếng) trong Kinh thư ra chữ Nôm nếu tấm gương của các vua hiền thời xưa để dạy vua Thuận Tông. - Đề cao lối học thực dụng cần thiết cho ca chế quan liêu : Phê phán những người chỉ biết chắp nhặt văn chương, tuy học rộng nhưng viễn vông.
Năm 1396, Hồ Quý Ly cho sửa đổi chế độ thi cử, đặt kỳ thi hương ở địa phương và thi hội ở kinh thành. Những người đã thi hội phải làm thêm một bài văn sách do vua đề ra để định thứ bậc. Trong bốn trường thi, Hồ Quý Ly bỏ trường thi ám tả văn cổ thay bằng thi kinh nghĩa. Năm 1404, ông đặt thêm trường thứ 5, thi viết chữ và toán.
Năm 1397, ban hành chính sách khuyến học cho mở trường đến các phủ châu, ban quan điền để chi về việc học. - Cải tiến thi cử, mở nhiều khoa thi kén chọn người tài. Chỉ riêng khoa thi Thái học sinh năm 1400 đã có 20 người thi đỗ, trong đó có những danh nho như Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên, Nguyễn Mộng Tuân...'. Ông cho đặt chức giáo thụ trông coi việc học, cho mở trường đến các phủ châu, bán quan điền để chi vào việc học.
VI. Cải cách tài chính- phát hành tiền giấy
Cải cách tiền tệ là một biện pháp mới, lần đầu tiên được thực hiện ở Đại Việt. Thoạt nghe như thấy là tiến bộ, bởi kinh tế hàng hóa tiền tệ đã có phần nào khởi sắc ở thời Trần, lại cần kinh tế Đại Việt hội nhập được vào kinh tế thế giới, nhất là ở khu vực Đông và Đông Nam Á lúc này- nơi nền kinh tế hóa- tệ đang lên.
Tháng 4-1396, thực hiện chủ trương phát hành tiền giấy: “năm 1396 tháng 4 bắt đầu phát hành ( tiền giấy thông bảo hội sao…thể thức tiền giấy: gồm 7 loại: 10 đồng 30 đồng 1 tiền, 2 tiền, 3 tiền , 5 tiền,1 quan đều có hình in khác nhau “ giấy 10 đồng vẻ rau tảo giấy 30 đồng vẻ sóng nước, giấy 1 tiền vẻ mây,giấy 2 tiền vẻ con rùa, giấy 3 tiền vẻ con lân, giấy 5 tiền vẻ con phượng, giấy 1 quan vẻ con rồng”
Hồ Quí Ly là một nhà tư tưởng đồng thời là nhà cải cách với đường lối thật toàn diện và táo bạo. Chỉ trong thời gian tương đối ngắn ngủi hơn năm năm cuối nhà Trần và chưa đầy bảy năm trị vì của nhà Hồ, những việc làm thực tế của Quí Ly cho thấy ông đã vạch ra và quyết tâm thực hiện cải cách khắp mọi lĩnh vực: chính trị, hành chính, quốc phòng, kinh tế, tài chính, văn hoá - tư tưởng, giao dục, y tế, xã hội,... Tư tưởng nào của ông cũng mới mẻ, hành động nào của ông cũng trọng đại, có tác dụng thúc đẩy xã hội đổi mới.
Bằng cải cách chính trị, Hồ Quí Ly tổ chức và vận dụng bằng đảng, cùng những người đồng tâm hiệp ý với ông từng bước nắm giữ những vị trí then chốt trong chính quyền và quân đội, rồi cuối cùng ông chiếm lấy cả ngôi vua. Việc làm này vào thời buổi ấy, do ảnh hưởng nặng nề của Tống Nho, có thể nói hầu hết mọi người trong xã hội - từ giới vương hầu quý tộc, tri thức nho sĩ đến quần chúng nhân dân lao động - ai ai cũng đều lên án, nguyền rủa,... Thế mà ông đã dám nghĩ dám làm. Có thể nói cuộc đảo chính cung đình giành lấy ngôi vua từ tay họ Trần sang họ Hồ là việc làm táo bạo và triệt để nhất trong quá trình cải cách chính trị của Quí Ly. Chiếm được chính quyền, ông tiếp tục đề ra những biện pháp nhằm dựng dậy chế độ Nhà nước quân chủ đang đi vào chỗ rệu rã, suy sụp,...
Bằng cải cách kinh tế - xã hội, ông đưa ra chính sách hạn điền (1397), hạn chế diện tích ruộng của tầng lớp vương hầu quý tộc, địa chủ. Tư nhân không được có quá 10 mẫu ruộng (tương đương ba ha ngày nay), số đất dư phải giao nộp cho Nhà nước làm ruộng công. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, Nhà nước thực hiện biện pháp quốc hữu hoá tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai để phối hợp với chính sách hạn nô, làm thành hai mũi tiến công mạnh mẽ vào chế độ "người bóc lột người". Chính sách hạn nô ban hành năm 1401 quy định mỗi quý tộc chỉ được phép nuôi trong nhà một số gia nô nhất định. Số dư ra phải sung vào đội ngũ quan nô (nô tỳ của Nhà nước). Chính sách ấy về mặt chính trị có tác động làm suy yếu, đi đến triệt hạ thế lực của tầng lớp quý tộc ăn trên ngồi trốc, về mặt xã hội nhằm giải phóng tầng lớp nô tỳ nghèo khổ khỏ sự áp bức, bóc lột của quý tộc vương hầu, và về mặt kinh tế, xây dựng nên một lực lượng lao đông mới đạt dưới sự điều động, quản lý trực tiếp của Nhà nước.
Khắp các lĩnh vực còn lại, chủ trương cải cách của Hồ Quí Ly còn thể hiện qua nhiều việc đổi mới nổi tiếng khác như cải tiến, chế tạo súng thần công và thuyền chiến, phát hành tiền giấy thay cho tiền đồng, thực hiện chính sách di dân khai thác vùng đất mới; thực hiện các công trình phát triển giao thông thuỷ lợi; tăng cường quản lý thị trường, lập kho Thường bình bình ổn mức cung cầu và vật giá; đổi mới chính sách thuế vụ; soạn sách Minh Đạo đưa ra tư tưởng xét lại Nho giáo; cải cách giao dục, mở trường công ở địa phương; đề cao chữ Quốc ngữ (chữ Nôm); cải cách chế độ thi cử, đưa môn toán vào việc tuyển chọn quan lại; chấn hưng lễ nhạc; mở cơ sở y tế công để chữa bẹnh cho dân; cải cách tôn giáo để đối mới nhà chùa; thực hiện công tác từ thiện, cứu tế,...
Điểm đặc sắc trong khi tiền hành cải cách là Hồ Quí Ly quyết tâm đổi mới cách thức trị nước bằng chủ trương triệt để tăng cường pháp trị. Hàng loạt các văn bản pháp luật được ban hành vào cuối đời Trần (thực chất là do Hồ Quí Lý khởi xướng) và trong bảy năm cầm quyền của nhà Hồ, để thông qua đó đề ra đường lối đối mới có hiệu lực thi hành trong phạm vi cả nước. Hồ Quí Ly thường xuyên đẩy mạnh công cuộc lập pháp và dùng mọi biện pháp nghiêm khắc có khi đến tàm bạo để bảo đảm cho pháp luật được nghiêm chỉnh thực hiện.
Phần IV: NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI CỦA CUỘC CẢI CÁCH
Thứ nhất: Nhiều chính sách của Hồ Quý Ly không phù hợp với điều kiện lịch sử hiện tại, quá sức so với hoàn cảnh của lịch sử lúc đó: chính sách tiền giấy tuy có tư tưởng tiến bộ tuy nhiên so với hoàn cảnh lịch sử lúc đó là hoàn toàn không phù hợp, nhân dân không quen dùng tiền giấy do đó chính sách phát hành tiền giấy không phát huy hiệu quả.
Thứ hai: Nhiều chính sách thực hiện không triệt để như “hạn điền”, “hạn nô” do đó không đem lại hiệu quả. Hai chính sách này có thể nói này về tư tưởng là tiến bộ nhưng việc thực hiện lại không mang lại kết quả, chúng đều là những chính sách nửa vời, đúng ở đầu vào nhưng sai ở đầu ra. Do đó đã không giải phóng được sức lao động để phát triển kinh tế.
Thứ ba: Nguyên nhân quan trọng dẫn đến thất bại của nhà Hồ đó là do họ không được lòng dân. Hồ Nguyên Trừng đã từng nói: “Không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo”.Cuộc tàn sát đẫm máu đối với quý tộc nhà Trần của Hồ Quý Ly, đã gây nên sự bất mãn của nhân dân. Nhân dân lúc này cũng đang rất coi trọng nhà trần. Hồ Quý Ly luôn bị coi là “kẻ tiếm ngôi”. Ngoài ra nhiều chính sách đàn áp dã man của hồ quý ly đã gây nên sự chống đối của nhân dân. Sự áp đặt nhân dân trong việc sử dụng tiền giấy đã không những không mang lại kêt quả mà còn gây ra sự chông đối mạnh mẽ trong nhân dân.
Thứ tư: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly diễn ra trong hoàn cảnh đầy khó khăn và phức tạp: khủng hoảng kinh tế- xã hội trên nhiều măt:
Cuộc đấu tranh mạnh mẽ giữa tư tưởng phật giáo và nho giáo
Nhân dân cực khổ, nạn đói mất mùa liên tục xảy ra
Quý tộc nhà Trần ra sức chống đối họ Hồ, với tư tưởng “phù Trần, giệt Hồ”
Bên ngoài thì giặc Minh đang hăm he xâm chiếm nước ta
Thứ năm: Năng lực của Hồ Quý Ly bị hạn chế:
Tài năng kinh tế của Hồ Quý Ly chưa cao, tuy bắt mạch trúng được yêu cầu giải quyết khủng hoảng nhưng các biện pháp lại nửa vời không đáp ứng được mục tiêu.
Ông thiếu đức “khoan dân” để thu phục nhân tâm.
Hồ Quý Ly thiếu năng lực về quân sự
Thiếu gương mẩu trong việc dùng quân
Thứ sáu: cuộc cải cách của Hồ Quý Ly diễn ra trên nhiều mặt nên không phát huy được hiệu quả. Thiếu nguồn lực để thực hiện cải cách do cuộc cải cách không tập trung mà bị dàn trải đi rất nhiều, dẫn đến “Làm không đến nơi đến chốn”
Phần V: BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ LIÊN HỆ THỰC TẾ HIỆN NAY
Thứ nhất: Hồ Quý Ly rất coi trọng việc tuyển chọn các quan lại. người nào có tài năng thực sự thì được cân nhắc và được giao những chức vụ nhất định không phân biệt là tôn thất hay là dân thường. do đó hiện nay việc bổ nhiệm cán bộ công chức của đảng và nhà nước ta phải dựa trên năng lực phẩm chất đạo đức. phải có chế độ đải ngộ thích hợp đối với cán bộ công chức để họ yên tâm công tác.
Thứ hai: Hồ Quý Ly là người rất coi trọng công tác kiểm tra giám sát, chống thói xu thời không giám can ngăn cái sai của nhà vua khiến quốc pháp bị xem thường. với quan ngự sử trung đô úy.Đỗ Tử Trừng là người co trách nhiệm, ông đã gửi lời trách:
“đài gián từ lâu tiếng lặng thinh
Triều đình để phép bị coi khinh
Kẻ trừng trung úy sao mềm yếu?
Kẻ sĩ không nên bỏ chí mình”
Do đó hiện nay đảng và nhà nước ta cần phải quan tâm đến công tác tăng cường hoạt động giám sát thanh tra của các cơ quan quyền lực như quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp,.tăng cường hoạt động thanh tra giám sát của cơ quan hành chính cấp trên dối với cơ quan hành chính cấp dưới nhằm làm trong sạch bộ máy hành chính. Phải phát huy tối đa hiệu quả của hoạt dộng thanh tra giám sát. Chúng ta phải dề cao nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính. Mọi hoạt động của cở quan nhà nước phải được tiến hành công khai minh bạch. Đồng thời chúng ta phải đề cao vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước, không ngừng tằng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Phải làm cho pháp luật đi vào với cuộc sống của nhân dân,mọi cá nhân đều phải sống và làm việc theo pháp luật đặc biệt là đội ngủ can bộ công chức.
Thứ ba: Nhà Hồ đã đề ra nhiều chính sách phù hợp,tiến bộ như lập quãng tế tự, chính sách phát triển giáo dục,… Do đó ngày nay chúng ta phải quan tâm đến việc cung ứng dịch vụ công của cơ quan nhà nước, góp phần nâng cao cuộc sống cho nhân dân.phải chú ý đén phát triển các dịch vụ công cộng như điện, đường, trường, trạm,…
Thứ tư: Có thể nói nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự sụp đổ của nhà Hồ là lòng dân. Nhà Hồ đã không thu phục được nhân dân trong công cuộc cải cách của mình cũng như trong công cuộc chống giặc minh do đó đã nhanh chóng thất bại. chính vì lẽ đó hiện nay đảng và nhà nước ta cần phải quan tâm đến vấn đề thu phục lòng dân phải đoàn kết toàn dân tộc. Chủ Tịch Hồ chí Minh đã từng nêu lên quan điểm dân là gốc, do đó mọi chính sách đều phải xuất phát từ nhân dân, phục vụ lợi ích của nhân dân. Một đất nước muốn phát triển thì nhân dân phải được ấm no, dân giàu thì nước mới mạnh do đó phải không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân, chỉ có như vậy thì đât nước mới phát triển được. phải vận dụng tốt nguyên tắc “dân biết dân bàn dân làm dân kiểm tra” các chính sách của đảng và nhà nước phải phù hợp với tâm tư và nguyện vọng của nhân dân. Trước khi đưa ra một chính sách nào củng cần phải hỏi ý kiến của nhân dân phải trưng cầu dân ý. Có như vậy thì các chính sách mới đi vào được dời sống của nhân dân, mới phát huy được hiệu quả của mình. Thực tế trong thời gian qua nhà nước ta đã đưa ra nhiều chính sách không phù hợp do đó không phát huy được hiệu quả, chẳng hạn việc cấm lưu hành xe ba gác, tự chế đã gây khó khăn cho quần chúng nhân dân. Nhà nước ta đã không quan tâm đến việc giải quyết việc làm cho số lao động sống bằng xe ba gác, tự chế.do đó nhân dân đã phản ứng mạnh mẽ. Một chính sách muốn phát huy hiệu quả phải được tiến hành một cách từ từ, phải được tham khảo ý kiến của nhân dân.
KẾT LUẬN
Có thể nói Hồ Quí Ly là người rất có tài, một nhà chính trị đa mưu túc trí, một nhà cải cách kiên quyết và táo bạo, một người có ý thức dân tộc mạnh mẽ thể hiện qua hành động thực tế của ông,... Song những cải cách và biện pháp thực hiện cải cách Hồ Quí Ly về căn bản đã dẫn đến sự thất bại thảm hại: vua bị mất ngôi, cả nước bị lọt vào tay giặc Minh xâm lược!
Bao giờ cũng vậy, cải cách là sự phá vỡ cái cũ và xây dựng nên cái mới tốt đẹp hơn. Song không phải bao giờ con người cũng dễ có được ý thức thống nhất với nhau về tính chất tốt đạp ấy. Quí Ly đã gặp phải sự chống đối quyết liệt của số đông khi mà thời gian cần thiết để những cải cách được thử thách quá ngắn ngủi! Thất bại của Hồ Quí Ly trước hết là kết quả của sự "thiếu nhân tâm". Bên trong ông không được sự ủng hộ của quảng đại quần chúng dân nhân và bên ngoài tạo cớ danh nghĩa "phù Trần diệt Hồ" cho cuộc chiến tranh xâm lược của thế lực bành trướng từ phương Bắc.
Nhà Hồ chỉ tồn tại ở nước ta được có hơn 7 năm mà đã tích tụ, hình thành được bao nhiêu kinh nghiệm. Nó chứng minh một cách hiển nhiên là: "Cuộc caỉ cách và nền chính trị không được quần chúng ủng hộ, không có khả năng làm cho quần chúng ủng hộ thì chóng hay chầy cũng dẫn đến thất bại, cho dù nó có quy mô rộng lớn, có hình thức, chiêu bài tốt đẹp và có đủ những biện pháp cưỡng chế, áp bức người ta đến đâu đi nữạ.."
Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly diễn ra vào cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV (1395-1407) nhằm giải quyết khủng hoảng toàn diện của xã hội cuối Trần, từ khủng hoảng kinh tế xã hội, khủng hoảng hệ tư tưởng dẫn đến khủng hoảng thiết chế xã hội và cao nhất là khủng hoảng cung đình. Nhìn chung lại : Cải cách Hồ Quý Ly là toàn diện, lấy kinh tế xã hội làm trọng tâm, trong đó “hạn điền”, “hạn nô” là quan trọng nhất. Nhưng “hạn điền”, "hạn nô” không triệt để. Cải cách tiền tệ, ý đồ thì tốt, nhưng kinh tế xã hội chưa có nhu cầu. Cải cách văn hóa, giáo dục có tiến bộ nhưng cũng không tránh khỏi bị những phản ứng của Phật giáo lúc đó vẫn còn cần thiết cho đám quần chúng nông dân khổ ải. Cải cách quân sự có cái mới nhưng chưa coi trọng chiến tranh nhân dân, còn dựa vào thành hơn là “dựa vào lòng người”... Mặc dầu vậy, cải cách xã hội của Hồ Quý Ly cũng có cống hiến đáng kể cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của dân tộc. Nếu không bị giặc Minh tàn phá thì cũng đưa lại những tiến bộ đáng kể cho đất nước. Những mục tiêu cải cách mà Hồ Quý Ly mong muốn, sau này đã được Lê Thánh Tông kế thừa, phát huy mặt tích cực, phủ định cái tiêu cực, dẫn tới thành công