✽)Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Lão Hạc
Nhắc đến truyện ngắn Lão Hạc, một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn 1930-1945, người ta nghĩ ngay đến nhân vật cùng tên, một điển hình của người nông dân nước ta trước Cách mạng tháng Tám mà quên mất một hình tượng cũng hết sức thành công khác trong truyện: Nhân vật "tôi"-ông giáo. Có thể nói, dù không phải là nhân vật chính, xuất hiện với vai trò là người kể chuyện, hiện lên chỉ với vài nét ngắn gọn qua lời kể của chính mình nhưng nhân vật ông giáo "tôi" là một hình tượng nghệ thuật đặc sắc của Nam Cao, mang nhiều giá trị nghệ thuật, trong có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.
Đúng như nhận định của Trần Đăng Suyền, "Nam Cao là nhà văn lớn nhất của trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930-1945" (trong bài viết Nam Cao-nhà văn hiện thực xuất sắc, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn). Ông đến với chủ nghĩa hiện thực phê phán khá muộn, khi trên văn đàn đã có những cây bút đại thụ với nhiều đỉnh cao không dễ gì vượt qua như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố... Thế nhưng bằng sự ý thức sâu sắc về quan điểm nghệ thuật của mình, Nam Cao đã "biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có" (Đời thừa). Với cách đi của riêng mình, Nam Cao đã sáng tạo nên những điển hình nghệ thuật bất hủ trong văn xuôi hiện thực Việt Nam. Ngày nay, những Chí Phèo, Thị Nở, dì Hảo, lão Hạc... không chỉ còn là nhân vật trong trang sách nữa mà đã bước ra cuộc đời, in đậm dấu ấn trong đời sống văn học dân tộc.
Trong truyện ngắn Lão Hạc, bên cạnh nhân vật chính là một điển hình xuất sắc về người nông dân Việt Nam trước 1945, nhân vật ông giáo tuy chỉ là nhân vật phụ nhưng lại mang nhiều giá trị hiện thực rõ nét. Đây là nhân vật tiêu biểu cho tầng lớp trí thức tiểu tư sản nước ta trước Cách mạng, cụ thể là những người dạy học mà tác giả gọi là những "giáo khổ trường tư". Không được khắc họa đậm nét như anh giáo Thứ trong tiểu thuyết Sống mòn, nhưng qua một ông giáo "tôi" trong truyện ngắn Lão Hạc, ta bắt gặp nhiều ông giáo khác ở nước ta trước năm 1945. Đó là những trí thức nghèo khổ, sống lay lắt bằng đồng lương ít ỏi ở các trường tư. Cuộc sống họ cũng chẳng hơn gì cuộc sống của người nông dân, cũng bấp bênh, túng quẫn và bế tắc. Trong truyện, gia đình ông giáo thường xuyên rơi vào cảnh "cùng đường đất sinh nhai", con cái nheo nhóc, bệnh tật liên miên, vợ "khổ quá rồi" đến nỗi "cái bản tính tốt" của thị "bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất". Cũng như văn sĩ Hộ trong Đời thừa, văn sĩ Điền trong Giăng sáng, ông giáo "tôi" trong Lão Hạc cũng phải "chạy ăn từng bữa toát mồ hôi" (Trần Tế Xương). Đây chính là cuộc sống của trí thức tiểu tư sản nói chung, người làm nghề dạy học nói riêng ở nước ta trước năm 1945 mà nhân vật ông giáo "tôi" là một người tiêu biểu.
Trong hoàn cảnh đời sống chật vật, túng thiếu, quẫn quanh ấy, các nhân vật trí thức của Nam Cao thường rơi vào bi kịch giữa lí tưởng cao đẹp và hiện thực khốn cùng trói buộc, giữa khát vọng lớn lao với chuyện áo cơm ghì sát đất. Ông giáo trong Lão Hạc là một tiêu biểu cho bi kịch này của những "giáo khổ trường tư" nước ta trước Cách mạng. Ông giáo "tôi" cũng từng có "một thời chăm chỉ, hăng hái và tin tưởng đầy những say mê đẹp và cao vọng", một thời mà "mỗi lần mở một quyển ra, chưa kịp đọc dòng nào, tôi đã thấy bừng lên trong lòng tôi như một rạng đông, cái hình ảnh tuổi hai mươi trong trẻo, biết yêu và biết ghét". Nhưng "một trận ốm thập tử nhất sinh đã đem y về, trả cho đất chôn nhau cắt rốn" (Sống mòn), và rồi sau nhiều lần "cùng đất sinh nhai", con cái ốm đau nheo nhóc, vợ "khổ quá rồi", những ước mơ, hoài bão của thời trai trẻ ấy chỉ còn trong "cái kỉ niệm của một thời", đã ngủ yên trong kí ức và sau này chưa một lần ông giáo nhắc lại. Có thể nói, dù không được tác giả khắc họa đậm nét như bi kịch "một kẻ vô ích, một người thừa" giằng xé trong nội tâm của các Điền, Hộ, Thứ,... nhưng qua những gì ông giáo nghĩ về "những quyển sách rất nâng niu", về "một thời chăm chỉ, hăng hái và tin tưởng", về cuộc sống bấp bênh, nghèo túng hiện tại, ta hiểu ở nhân vật này cũng có những nỗi khổ khó nói ra. Trong Sống mòn, Nam Cao khẳng định: "Đau đớn thay những kiếp sống muốn khao khát lên cao nhưng lại bị áo cơm ghì sát đất". Hay như trong Đời thừa, ông viết: "Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khao khát làm một cái gì mà nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt". Đó chính là nỗi đau của những trí thức tiểu tư sản làm nghề dạy học ở nước ta trước 1945 mà anh giáo Thứ, ông giáo "tôi" là những điển hình.
Không chỉ là "nhà văn hiện thực xuất sắc", Nam Cao còn là "nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn". Và "cái góc, nền tảng vững chắc của chủ nghĩa hiện thực của Nam Cao là chủ nghĩa nhân đạo" (Trần Đăng Suyền, tài liệu đã dẫn), bởi hơn ai hết, ông ý thức được rất rõ giá trị chân chính của "một tác phẩm thật giá trị" là giá trị nhân đạo của nó. Trong Đời thừa, nhà văn viết: "Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... Nó làm cho người gần hơn". Quả thực, Nam Cao đã làm được những gì ông quan niệm. Giữa lằn ranh mong manh của chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự nhiên, nhà văn đã không bị chao đảo, nghiêng lệch về chí tuyến bên kia bởi ông đứng vững chắc trên nền tảng chủ nghĩa nhân đạo. Nam Cao là "nhà văn của những người khốn khổ, tủi nhục nhất trong xã hội thực dân - phong kiến".
Viết về từng người trong họ, ông "đều bộc lộ tấm lòng của một con người đau đời và thương đời da diết", bởi "Nam Cao yêu thương những con người bị cuộc đời đày đoạ" (Trần Đăng Suyền). Tác phẩm Nam Cao "càng thử thách càng ngời sáng", có địa vị quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc, có lẽ trước hết bởi ở giá trị nhân đạo mà chúng mang trong mình.
✽)Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Trong lòng mẹ
Nguyên Hồng - nhà văn của phụ nữ và trẻ em. Văn của ông luôn mang giá trị nhân đạo sâu sắc, bày tỏ tình yêu thương và sự kính trọng đối với những mảnh đời bất hạnh, thấp cổ bé họng trong xã hội. "Trong lòng mẹ" là đoạn trích từ tập truyện "Những ngày thơ ấu", như một cuốn tự sự về cuộc đời nhà văn. Giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện qua tình mẫu tử thiêng liêng, cao cả giữa hai mẹ con bé Hồng.
Sinh ra và lớn lên trong một xóm nghèo, sống cùng những người dân lao động quanh năm đầu tắt mặt tối, với một trái tim nhạy cảm, giàu tình yêu thương, Nguyên Hồng luôn tìm thấy cái tốt đẹp, cao thượng bên trong những thân xác cục mịch, xồ xề. Văn chương của ông luôn hướng tới giá trị tinh thần, vẻ đẹp cốt lõi bên trong mỗi người. Viết "Những ngày thơ ấu", tác giả lấy chất liệu văn học từ chính tuổi thơ bất hạnh của mình, tái hiện lại quãng thời gian mồ côi bố, sống xa mẹ, ở với những người họ hàng luôn miệt thị, ruồng bỏ gia đình mình. Đoạn trích "Trong lòng mẹ" đã tái hiện chân thực về số phận người phụ trong xã hội xưa, chồng mất sớm do nghiện ngập, vì không chịu nổi miệng lưỡi người đời mà phải bỏ nhà bỏ cửa đi tha hương cầu thực. Tác giả bày tỏ sự xót xa, thương cảm cho người phụ nữ và em bé vô tội, đồng cảm với tình mẫu tử thiêng liêng mà hai mẹ con dành cho nhau.
Giá trị nhân đạo thể hiện ở sự cảm thông mà nhà văn dành cho nhân vật. Xây dựng hình ảnh người phụ nữ chồng mất sớm, tuổi thanh xuân chôn vùi bên người chồng nghiện ngập, chấp nhận một cuộc hôn nhân không có tình yêu. Khi người chồng mất đi, gia cảnh sa sút phải chấp nhận bỏ lại con đi tha hương cầu thực, lại bị họ hàng nói xấu, tiêm nhiễm vào đầu đứa con thơ ở nhà những câu chuyện bịa đặt về mẹ mình. Với đứa bé, là kết cục của một cuộc hôn nhân lầm lỡ không có tình yêu đã là điều vô cùng bất hạnh, lại sớm mồ côi, thiếu thốn tình yêu thương của mẹ, cậu lớn lên bằng những lời dè bỉu, miệt thị từ bà cô. Biết được nỗi đau của cậu, biết cậu nhớ mẹ, thương mẹ, bà cô luôn tìm cách chọc ngoáy, khinh miệt, nhắc đến mẹ cậu với giọng nói cay độc và "nét mặt khi cười rất kịch", luôn "gieo rắc vào đầu" câu bé "những hoài nghi" để lôi kéo cậu ruồng rẫy chính mẹ của mình. Một tâm hồn non nớt đầy tổn thương, còn nhỏ mà phải chịu biết bao đắng cay, khổ cực. Nhà văn bày tỏ sự thương xót, cảm thông với mẹ con họ qua chính lời của nhân vật bé Hồng, "tôi thương mẹ tôi", "nhưng đời nào tình thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến". Trái ngược với sự cay độc, dè bỉu, chà đạp con người trong xã hội đương thời, nhà văn luôn tìm thấy vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn để yêu thương, trân trọng, thấu cảm cho nỗi đau đớn, mất mát của họ. Tinh thần nhân đạo ở đây chính là tình người, tình yêu với những số phận kém may mắn.
Giá trị nhân đạo của đoạn trích thể hiện ở những bản chất, phẩm giá tốt đẹp trong cốt cách con người. Người phụ nữ mẹ bé Hồng có cuộc đời bất hạnh, khổ đau là thế, nhưng với bản năng làm mẹ, cô vẫn bỏ mặc tất cả để về thăm con. Ôm con trong vòng tay, cô "kéo tay", "xoa đầu" con, sụt sùi theo tiếng khóc của con mà nhẹ nhàng an ủi: "Con nín đi! Mợ đã về với các con rồi mà", "lấy vạt áo nâu thấm nước mắt", "xốc nách" con lên xe. Cảm giác của một người làm mẹ lâu ngày mới được gặp lại con khiến người đọc vô cùng xúc động. Trong khi ấy, bé Hồng không bình tĩnh được như mẹ. Câu cuống cuồng, vội vã, vì lâu lắm rồi, cậu không được vùi đầu trong cái hơi ấm thân quen ấy. Tiếng gọi bối rối: "Mợ ơi! Mợ ơi! Mợ ơi!" cậu cất giữ bấy lâu nay như vỡ òa. Cậu lo sợ rằng đã nhận nhầm người, người phụ nữ ngồi trên xe kia nếu không phải mẹ cậu thì cậu sẽ trở thành trò cười cho chúng bạn. Gặp lại mẹ ngần ấy thời gian xa cách, cậu "ríu cả chân lại", "òa lên khóc rồi cứ thế nức nở", ngồi cạnh mẹ, "đùi áp đùi mẹ, đầu ngả vào cánh tay mẹ", "cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng mơn man khắp da thịt. "Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người, để bàn tay mẹ vuốt từ trên trán xuống cằm và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy người mẹ có một sự êm dịu vô cùng". Những dòng văn miêu tả chân thực và cảm động cảnh hai mẹ con bé Hồng gặp lại nhau, nhóm lên trong lòng độc giả một cảm xúc vừa mừng và tủi. Mừng vì cuối cùng, sau bao khó khăn, tình mẫu tử thiêng liêng ấy vẫn chiến thắng những hủ tục lạc hậu. Tủi vì thương, vì xót, đáng ra việc hai mẹ con gặp gỡ, mẹ đón con sau giờ học là điều hiển nhiên trong tuổi thơ mỗi người thì ở đây, cuộc gặp gỡ của họ lại thấm đẫm nước mắt. Giá trị nhân đạo ở đây chính là sự yêu thương, trân quý những con người "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn", sống trong xã hội tàn ác, độc đoán nhưng vẫn giữ trọn tấm lòng chân thành, lương thiện.
Cuối cùng, tác giả gửi gắm giá trị nhân đạo vào đoạn trích qua quan điểm cá nhân, lên án những hủ tục lỗi thời, lạc hậu đã bóp méo suy nghĩ và tư tưởng của đại bộ phận người dân bấy giờ, đày đọa biết bao số phận bất hạnh. Là nạn nhân của cuộc hôn nhân không tình yêu, tác giả khéo léo phản ánh tình trạng cưới ép, cưới theo sự sắp đặt của gia đình, một hủ tục cực kì phổ biến trong xã hội Việt Nam. Người Việt cho rằng, hôn nhân cần dựa trên sự tương đồng về xuất thân, gia phả, kinh tế. Vì vậy, không ít đôi lứa yêu nhau đã phải chấp nhận buông bỏ, lập gia đình với những người thậm chí mình không hề biết mặt. Bên cạnh đó, tác giả đặc biệt chú trọng bày tỏ cảm xúc qua nhân vật chú bé Hồng, thể hiện sự phẫn uất và căm tức những lề thói lỗi thời ngày xưa. Ý thực được mẹ mình bị mang tiếng, "một người đàn bà đã bị cái tội là góa chồng, nợ nần cùng túng quá, phải bỏ con cái đi tha hương cầu thực", khi nghe những lời cay nghiệt từ bà cô, cậu bé đã nảy sinh suy nghĩ: "Giá những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi". Hàng loạt động từ mạnh được sử dụng đã nhấn mạnh sự căm tức và nỗi khát khao phá bỏ những cổ tục ăn mòn vào tâm trí nhân dân. Giá trị nhân đạo của đoạn trích được thể hiện rõ nét, trên một phương diện mới mẻ, xót thương cho phận người phụ nữ trong xã hội thực dân nửa phong kiến, phải chống chọi với miệng lưỡi người đời độc ác, xấu xa.
Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật sắc sảo, mượn lời của nhân vật bé Hồng để bày tỏ quan điểm cá nhân, tác giả đã rất thành công trong việc bồi đắp giá trị nhân đạo cho đoạn trích. Qua "Trong lòng mẹ", người đọc thấy được một trái tim nhân hậu, lương thiện, tình yêu thương đối với phụ nữ, trẻ em và giọng điệu đanh thép, kiên quyết lên án những hủ tục bất công trong xã hội.
*Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Lão Hạc:
Nhắc đến Nam Cao là nhắc đến cây bút truyện ngắn hiện thực xuất sắc đẩu thế kỉ XX của văn học Việt Nam. Qua các tác phẩm viết về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945, Nam Cao đã bộc lộ một cái nhìn nhân đạo, đầy yêu thương, trân trọng về những người đồng bào lao khổ của mình. Tư tưởng ấy cũng được thể hiện sâu sắc qua truyện ngắn Lão Hạc .
Giá trị nhân đạo của tác phẩm trước hết được khẳng định qua tấm lòng đồng cảm của nhà văn đối với những số phận bất hạnh của các nhân vật trong tác phẩm. Những con người trong tác phẩm này đều là nạn nhân của xã hội phong kiến nửa thực dân. Họ phải gồng mình chống lại nạn đói, những hủ tục phong kiến,... Và mỗi người lại có những nỗi khổ riêng. Nhân vật chính, lão Hạc, là một người có hoàn cảnh vô cùng bi đát. Vợ mất sớm, đứa con trai duy nhất bỏ đi cao su. Một mình lão phải đối mặt với tuổi già, bệnh tật, cái đói và sự cô đơn. Nhà văn hay chính là nhân vật ông giáo trong tác phẩm đã không nén được những lời thương cảm: "luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai". Con trai lão Hạc cũng là một người đáng thương. Vì nhà nghèo, anh không lấy được người con gái mình yêu. Phẫn chí, anh bỏ làng đi cao su, cái đất cao su "đi dễ khó về", "khi đi trai tráng khi về bủng beo". Anh rời cha già luôn mấy năm, thiên truyện khép lại nhưng hình bóng anh người đọc cũng chưa được mục kích, câu hỏi về số phận của anh đành rơi vào câm lặng... Ông giáo, một nhân vật có uy tín ở làng, trong thời buổi ấy cũng túng thiếu dặt dẹo, đang sống cái đời "sống mòn", "rỉ ra, mốc lên". Có thể nói, "Lão Hạc" đã thể hiện lòng thương, sự đồng cảm với tất thảy những lớp người bần cùng trong xã hội Việt Nam khi ấy.
Nhưng sống trong nghèo đói mà không bị cái bần hàn bài mòn nhân phẩm, đó là một đặc điểm đáng quý của người nông dân Việt Nam. Và một biểu hiện quan trọng khác của giá trị nhân đạo trong tác phẩm là nhà văn đã biết khám phá để nâng niu trân trọng và ngợi ca phẩm chất ngời sáng trong tâm hồn những người đồng bào lao khổ của mình.
Các nhân vật trong "Lão Hạc" hầu hết đều là những người giàu tình thương. Tình phụ tử ở nhân vật lão Hạc đặc biệt cảm động. Dù rất đau lòng nhưng lão chấp nhận nỗi cô đơn hờn tủi, đồng ý để con trai ra đi theo chí hướng của mình. Con đi rồi, lão chỉ còn con chó Vàng làm bạn. Lão Hạc yêu con chó Vàng đến độ gọi nó là "cậu" Vàng, ăn gì cũng cho nó ăn cùng, cho nó ăn ra bát như người... Có điều đó không đơn giản bởi lão là người yêu động vật. Hãy nghe lời tâm sự của lão với ông giáo: con chó ấy là của cháu nó để lại. Vậy là lão Hạc yêu con Vàng phần lớn bởi đó là kỉ vật duy nhất do con để lại. Lão đã dồn toàn bộ tình cha cho con chó ấy. Khi bán con Vàng, "lão khóc như con nít", "mắt ầng ậng nước".... Không chỉ vậy, lão thậm chí còn chấp nhận cái chết để giữ đất cho con. Cái đói rượt lão gần đến đường cùng. Vẫn còn một lối nhỏ khác là bán mảnh vườn để lấy tiền ăn nhưng lão nghĩ rằng: đó là mảnh vườn của mẹ cháu để lại cho cháu... Và lão chọn cái chết chứ nhất quyết không bán đất của con. Con trai lão Hạc vì phẫn chí mà đi cao su nhưng trước khi đi vẫn để lại cho cha ba đồng bạc. Cả ông giáo, dẫu gia đình vẫn bữa đói bữa no nhưng luôn cố gắng giúp đỡ, cưu mang người hàng xóm bất hạnh...
Sống trong cái đói, cái nghèo nhưng không bị sự bần hàn làm cho quay quắt, hèn mọn, điều đáng quý nhất ở người nông dân Việt Nam trước Cách mạng là lòng tự trọng sáng ngời trong nhân phẩm. Lão Hạc thà nhịn đói chứ không chịu ăn không dù chỉ là củ khoai củ sắn của hàng xóm. Lão đã có thể bán vườn lấy tiền chống chọi với cái đói nhưng lão không làm vậy vì nhất quyết không ăn vào của con. Lão cũng có thể chọn con đường như Binh Tư đi đánh bả chó lấy cái ăn. Và lão không hề làm vậy. Con người ấy, đến lúc chết vẫn còn lo mình làm phiền hàng xóm nên dành dụm gửi gắm ông giáo tiền làm ma. Cảm động hơn cả là nỗi lòng quặn thắt của lão sau cái chết của con Vàng. Lão dằn vặt bởi nghĩ mình "đã đi lừa một con chó". Lão Hạc ơi! Ẩn bên trong cái hình hài gầy gò, già nua của lão là một tâm hồn cao thượng và đáng trân trọng biết bao nhiêu!
Đồng cảm với số phận của người lao động, đặc biệt là người nông dân Việt Nam trước Cách mạng, đồng thời ngợi ca những phẩm chất cao quý của họ là những biểu hiện quan trọng của giá trị nhân đạo trong truyện ngắn "Lão Hạc" của Nam Cao. Viết về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng, giọng văn Nam Cao lạnh lùng, bàng quan nhưng ẩn sâu trong đó là một tình thương sâu sắc và mãnh liệt.
#Walker
*Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Trong lòng mẹ:
#Walker