*Nguyên nhân bùng nổ cuộc khởi nghĩa Yên Thế :
- Kinh tế nông nghiệp sa sút, đời sống nông dân đồng bằng Bắc Kì vô cùng khó khăn, một bộ phận phải phiêu tán lên Yên Thế, họ sẵn sàng nổi dậy đấu tranh bảo vệ cuộc sống của mình.
- Khi Pháp thi hành chính sách bình định, cuộc sống bị xâm phạm, nhân dân Yên Thế đã đứng dậy đấu tranh.
*Diễn biến
3 giai đoạn Giai đoạn 1884-1892, nhiều toán nghĩa quân hoạt động riêng rẽ, chưa có sự chỉ huy thống nhất. Sau khi Đề Nắm mất (4/1892), Đề Thám trở thành lãnh tụ của phong trào. Giai đoạn 1893-1908: Thời kì này nghĩa quân vừa chiến đấu vừa xây dựng cơ sở. Giai đoạn 1909-1913: Sau vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội , phát hiện thấy có sự dính líu của Đề Thám, Thực dân Pháp đã tập trung lực lượng, mở cuộc tấn công quy mô lên Yên Thế.*Nx:
Cuộc khởi nghĩa Yên Thế khởi nguồn tại vùng Yên Thế Thượng. Trước khi thực dân Pháp đặt chân đến vùng này, nơi đây đã là một vùng đất có một cư dân phức tạp, chủ yếu là nông dân lưu tán các loại. Họ chọn nơi đây làm nơi cư trú và đã công khai chống lại triều đình. Khi thực dân Pháp đến bình định vùng này, các toán vũ trang ở đây có thể cũng chống lại quân Pháp như đã từng chống lại triều đình nhà Nguyễn trước đó để bảo vệ miền đất tự do của họ.Và vì Yên Thế là bình địa của Pháp khi chúng mở rộng chiếm đóng Bắc Kì nên họ đã nổi dậy đấu tranh để bảo vệ cuộc sống của mình.
Yên Thế Thượng vào giữa thế kỷ 19 còn là một vùng đất hoang vu chưa được khai phá. Đây là nơi tá túc của nhiều toán giặc Khách, nhiều toán thổ phỉ thường xuyên cướp phá các vùng lân cận. Đây cũng là nơi cho nông dân lưu tán hoặc đang bị truy đuổi đến ẩn náu và sinh sống từ những năm 60 và 70 của thế kỷ 19. Ở đây, họ cùng nhau khai phá đất hoang để trồng cấy, kiếm lâm sản, sống lẫn lộn với bọn giặc Khách, bọn thổ phỉ. Để chống lại ách áp bức, sự truy bắt của chính quyền cũng như chống lại sự cướp bóc, tàn phá của giặc cướp, những người nông dân lưu tán đến cư ngụ ở đây đã phải lập những đội vũ trang tự vệ, những làng chiến đấu. Đây được đánh giá là vùng đất thiếu an ninh nhất của Bắc kỳ lúc bấy giờ.
Nguyên nhân:
Do tình hình kinh tế sa sút dưới thời Nguyễn, kiến nông dân đồng bằng Bắc Kì phải rời quê hương len Yên Thế sinh sống. Khi thực dân Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng Bắc Kì, Yên Thế trở thành mục tiêu bình định của chúng. Để bảo vệ cuộc sống của mình, nhân dân Yên Thế đã đứng lên chống Pháp.
Diễn biến:( 3 giai đoạn)
Giai đoạn 1: 1884 - 1892
Nghĩa quân hoạt động riêng rẽ, do Đề Nắm lãnh đạo
Giai đoan 2: 1893 - 1908
Nghĩa quân vừa chiến đấu , vừ xây dựng cơ sở. Do lược lượng giữa ta và Pháp co sự chênh lệch nên Đề Thám đã 2 lần xin giảng hòa với Pháp.
Giai đoạn 3: 1909 - 1913
Pháp tập chung lược lượng tấn công quy mô lên Yên Thế. 10-2-1913 Đề Thám bị ám sát, phong trào tan rã.
Nhận xét:
Phong trào Yên Thế khẳng định truyền thống yêu nước, tinh thần bất khuất của nhân dân.
Thấy được khả năng lớn lao của nhân dân trong lịch sử đấu tranh dân tộc.
Nguyên nhân: Do sự sa sút của nông nghiệp dưới thời Nguyễn, một số nông dân đã bỏ lên Yên Thế lập làng, tổ chức sản xuất. Khi thực dân Pháp mở rộng phạm vi bình định ở Bắc Kì, để bảo vệ cuộc sống, nông dân Yên Thế đã đứng lên đấu tranh.
Diễn biến: Chia ra 3 giai đoạn chính
- Giai đoạn 1 (1884 - 1892): Nhiều toán nghĩa quân hoạt động riêng rẽ, chưa có sự chỉ huy thống nhất. Thủ lĩnh có uy tín nhất ở đó là Đề Nắm. Sau khi Đề Nắm mất, Đề Thám trở thành vị chỉ huy tối cao của phong trào.
- Giai đoạn 2 (1893 - 1908): Đây là giai đoạn nghĩa quân vừa chiến đấu, vừa xây dựng cơ sở.
Nhận thấy tương quan lực lượng quá chênh lệch, Đề Thám xin giảng hoà với Pháp.
Sau khi bắt được tên chủ điền Sét-nay người Pháp, Đề Thám đồng ý thả nếu Pháp rút quân khỏi Yên Thế; Đề Thám được cai quản bốn tổng trong khu vực là Nhã Nam, Mục Sơn, Yên Lễ và Hữu Thượng. Nhưng thời gian giảng hoà không lâu vì Pháp đã ráo riết lập đồn bốt từ đầu và tấn công lại vào Yên Thế. Lực lượng Đề Thám suy yếu nhanh chóng.
Để cứu vãn tình thế, Đề Thám xin giảng hoà lần hai. Pháp chấp nhận nhưng đưa ra những điều kiện ngặt nghèo, buộc Đề Thám chấp nhận.
Trong thời gian từ năm 1897 đến năm 1908, Đề Thám cho khai khẩn đồn điền Phồn Xương, lo tích trữ lương thực, xây dựng quân đội tinh nhuệ và sẵn sàng chiến đấu. Nhiều nhà yêu nước như Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đã tìm lên Yên Thế và bắt liên lạc với Đề Thám.
- Giai đoạn 3 (1909 - 1913): Sau vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội, thấy có sự dính líu của Đề Thám, Pháp tấn công quy mô lên Yên Thế. Trải qua nhiều trận càn quét, lực lượng Đề Thám bị hao mòn. Ngày 10 - 2 - 1913, khi Đề Thám bị ám sát, phong trào tan rã.
Vị trí: Yên Thế nằm ở vị trí tây bắc tỉnh Bắc Giang, có diện tích khoảng 40 - 50 km2. Nơi đây là vùng đất đồi, cây cối rậm rạp, địa hình hiểm trở.