(Mọi người giúp mình với tuần sau mình thi rồi. ) Viết đoạn văn ngắn cảm nhận về nhân vật. -Nhân vật phương định trong những ngôi sao xa xôi. -Nhân vật Nhĩ trong văn bản bến quê. -Nhân vật anh thanh niên trong lặng lẽ sapa.
-Mở đoạn :
+Giới thiệu về tác giả,
+tác phẩm
+đi vào khái quát đặc điểm của nhân vật
-Phát triển đoạn :
+Ngoại hình, xuất thân
+Sở thích
+Phẩm chất
-Kết đoạn :
+Khẳng định vẻ đẹp của nhân vật
+Ca ngợi nhân vật và sự thành công của tác phẩm
+Liên hệ bản thân
1. Phương Định:
"Cạnh giếng nước có bom từ trường
Em không rửa ngủ ngày chân lấm
Ngày em phá nhiều bom nổ chậm
Ðêm nằm mơ nói mớ vang nhà
Chuyện kể từ nỗi nhớ sâu xa
Thương em, thương em, thương em biết mấy..."
Có lẽ đề tài về người lính chiến sĩ là một đề tài quen thuộc trong văn học nước nhà qua hai cuộc kháng chiến ngoan cường của dân tộc. Đó là hình ảnh người lính chân chất,thật thà với tình đồng độithắm thiết trong Đồng chí của Chính Hữu. Đó là hình ảnh những người lính lái xe hiên ngang bản lĩnh và đầy lạc quan giữa bom đạn trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Đó là những mảnh đời người chiến sĩ đầy đau thương và xót xa trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh hay Người sót lại của rừng cười. Tất cả đã làm nên một bức tranh văn học chiến tranh đầy đau thương nhưng cũng tràn trề sự sống, niềm hi vọng và cả những vẻ đẹp rất đỗi thân thuộc và gần gũi của người lính nơi chiến trận. Trong những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê, hình ảnh những cô gái thành niên xung phong hiện lên thật đẹp đẽ như những ngôi sao xa, toả sáng giữa cuộc sống gian khổ và ác liệt. Phương Định là nhân vật tiêu biểu và để lại trong em nhiều ấn tượng khó phai.
Phương Định- một cô gái trẻ, người con của thủ đô Hà Nội, từ khi rời ghế nhà trường cô chọn cho mình một hành trình mới của cuộc đời nơi chiến trận. Cô tự thấy là một cô gái khá, "Tôi là con gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá. Hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn", và Định cũng được mọi người nhậnxét là có cái nhìn sao mà xa xăm. Cũng chính bởi vậy mà cô được nhiều anh lái xe và pháo thủ để ý, khi hỏi thăm, khi lại viết những dòng thư dài gửi Định.Cũng như bao cô gái khác, Định có tuổi trẻ với những khung trời riêng, niềm đam mê riêng của mình, cô yêu ca nhạc và mê hát."Tôi thích nhiều bài. Những bài hành khúc bộ đội hay trên những ngả đường mặt trận. Tôi thích dân ca quan họ mềm mại, dịu dàng. Thích Ca-chiu-sa của Hồng quân Liên Xô. Thích ngồi bó gối mơ màng: "Về đây khi mái tóc còn xanh xanh. Đó là dân ca Ý trữ tình, giàu có, phải lấy giọng thật trầm." Đó là một tâm hồn rất đỗi lạc quan,hồn nhiên, cô luôn tìm thấy vẻ đẹp,niềm tin trong cuộc sống và công việc của mình.
Trong công việc, Phương Định là một chiến sĩ đầy trách nhiệm. Cô ngoan cường, dũng cảm trong việc thực hiện những nhiệm vụ được phân công. Là một trong những thành viên của "tổ trinh sát mặt đường" làm nhiệm vụ trên tuyến đường Trường Sơn huyết mạch. Cô để ý đến từng chi tiết, biết chịu khó lắng nghe và nắm bắt tình hình tốt.Không khí phá bom rất căng thẳng, từng cảm giác của Định khi nghĩ về các anh cao xạ ở trên kia theo dõi từng động tác của mình đã khiến cô giữ vững lòng tự trọng, không đi khom mà đi thẳng, dũng cảm đến gần quả bom. Khi phá bom, Định tỏ ra rất thành thạo và hết mực dũng cảm, khi đến gần quả bom hay những lúc chờ đợi quả bom nổ là những giây phút căng thẳng và hồi hộp nhất. "Tôi dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom. Đất rắn. những hòn sỏi theo tay tôi bay ra hai bên. Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người, cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành. Hoặc là nóng từ bên trong quả bom. Hoặc là mặt trời nung nóng". Dường như, cô gái bé nhỏ Phương Định mang trong mình trọng trách to lớn, ý thức trách nhiệm luôn thường trực trong tâm trí của cô.
Hồn nhiên trong cuộc sống đời thường, dũng cảm trong công việc, còn với đồng đội, Định hết mực quan tâm và thân thiết,coi họ là những người thân trong một gia đình. Chị Thao, em Nho luôn được Định cảm nhận tinh tế bằng những cách nhìn đầy trân trọng và rất đỗi tự hào. Nho như một que kem nõn nà, chị Thao thì rất chu đáo, chị thích thêu thùa và ưa may vá, thích chép lời bài hát vào cuốn sổ nhỏ,Định quan tâm đến Nho khi em bị thương, Thao cũng rất ân cần và tỉ mỉ, lo lắng cho Nho.Nho là cô gái dịu dàng nhưng cũng đầy gai góc trong công việc. Chị Thao cũng đầy khát khao của tuổi trẻ nhưng ít mơ mộng và là cô gái từng trải so với Nho và Định. Ở họ là tình đồng đội gắn kết, tình chị em bình dị và thương yêu, là tình đồng chí son sắt cùng mục đích, lí tưởng. Cô yêu tất cả những người đồng nghiệp của mình, đặc biệt là những người chiến sĩ mang quân phục, với Định, những người đẹp nhất, thông minh và can đảm nhất là những người đội ngôi sao trên mũ.
Công việc đầy nguy hiểm trên chiến trường ác liệt, nơi mà sự sống và cái chết là ranh giới mong manh. Những cô gái thanh niên xung phong như Phương Định hiện lên rất đỗi lạ thường. Đó là vẻ đẹp tâm hồn của những cô gái dành thanh xuân, tuổi trẻ của mình để cống hiến cho Tổ quốc. Giữa thiên nhiên núi rừng và cả khoảng cách xa xôi, chắc hẳn ở những cô gái như Định sẽ không nguôi nỗi nhớ nhà. Và những lúc như thế, Định lại nghĩ về gia đình, nghĩ về Hà Nội thân yêu với những con đường nhựa lấp lánh ánh đèn, quảng trường lung linh ánh điện, vườn hoa trong công viên , hay tiếng rao đêm thân thuộc của những người bán hàng rong,... tất cả dường như rất đỗi thân thương trong tâm hồn Phương Định.
Thông qua nhân vật Phương Định, tác giả đã khơi dậy trong em niềm tự hào về những người lính cách mạng. Họ hi sinh một cách thầm lặng cho đất nước, cống hiến cho dân tộc. Định tuy là một cô gái trẻ nhưng đầy bản lĩnh. Chính sự dũng cảm và trách nhiệm nơi Định đã thôi thúc trong lòng tuổi trẻ chúng em ý thức trách nhiệm với quê hương, với gia đình và bản thân; truyền cho chúng em sự lạc quan, vui tươi, hồn nhiên trong cuộc sống và công việc.
2.Nhĩ:
Nguyễn Minh Châu (1930-1989) là một trong số những nhà văn tiêu biểu của nền văn xuôi đương đại Việt Nam. Cách sáng tác trước năm 1975 của ông là những bức tranh hiện thực sinh động về con người và cuộc sống của nhân dân ta trong những năm chống Mĩ cứu nước. Với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn huyền ảo, những trang văn của Nguyễn Minh Châu đã từng tạo nên vẻ đẹp rực rỡ trong các tác phẩm như: "Mảnh trăng cuối rừng", "Dấu chân người lính", "Cửa sông"... Những năm sau 1975, ông là nhà văn sớm nhất có sự trăn trở, khao khát đổi mới văn học, bởi ông coi "văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người". Vì thế, từ khuynh hướng sử thi lãng mạn - "sự kiện lấn át con người", ông chuyển sang đề tài "thế sự đời tư" (cuộc sống đời thường) với tính triết luận về những giá trị nhân bản đời thường, khám phá bản chất con người trong cuộc sống mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Hai tập truyện ngắn "Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành" (1983) và "Bến quê" (1985)với những bài tiểu luận phê bình văn học đã đưa Nguyễn Minh Châu lên vị trí "người mở đường tinh anh và tài năng" của văn học nước ta sau 1975. Đoạn trích "Bến quê" in trong tập truyện cùng tên của nhà văn, xuất bản năm 1985, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ "thế sự đời tư" ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Cái nhìn hiện thực đa chiều đã giúp cho nhà văn nhận ra những quy luật mang đầy tính nghịch lí, mâu thuẫn khó có thể lường hết được trong cuộc sống này. Điều đó đã được tác giả thể hiện qua việc khắc họa hình tượng nhân vật Nhĩ – một nhân vật tư tưởng gắn liền với những suy ngẫm, chiêm nghiệm triết lí về con người và cuộc đời.
Truyện được kể theo ngôi thứ ba nhưng toàn bộ diễn biến câu chuyện được nhìn qua lăng kính tâm trạng, suy nghĩ của nhân vật Nhĩ với một hoàn cảnh đặc biệt: sắp giã từ cuộc đời. Từ đó, giúp cho câu chuyện trở nên chân thực, sinh động, đồng thời toàn bộ tư tưởng, chủ đề của truyện được truyền tải một cách dễ dàng, tự nhiên, gần gũi và sâu sắc.
Nhĩ – một con người đã từng chu du đi khắp nơi trên trái đất với bất kể xó xỉnh nào anh cũng đã từng đặt chân tới nhưng đến phút giây cuối đời anh lại phải cột chặt thân mình bên giường bệnh. Và khi phải bó mình trên chiếc giường chật hẹp, không đi lại được anh mới chợt nhận ra vẻ đẹp giàu có của bãi bồi bên kia sông Hồng – nơi mà anh chưa từng đặt chân đến và vẻ đẹp tâm hồn của người vợ nhưng tiếc thay đã quá muộn màng.
Trước hết câu chuyện mở ra với những cảm nhận thật tinh tế của Nhĩ về vẻ đẹp của thiên nhiên, nơi bãi bồi bên kia sông vào buổi sáng sớm đầu thu. Khung cảnh được tạo dựng trong cái nhìn từ gần tới xa, từ thấp tới cao, từ mặt đất lên bầu trời của Nhĩ, rất đẹp, bình yên, thơ mộng, mang đậm hơi thở của làng cảnh quê hương. Cảnh như chất chứa, thấm thía cảm xúc, tâm trạng của con người nhân vật. Những bông hoa bằng lăng cuối mùa còn sót lại trên cành trở nên đậm sắc hơn; con sông Hồng như nhuốm một màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng ra thêm; vòm trời cũng như cao hơn với những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bên kia sông. Và tất cả như "đang phô ra trước khuôn cửa sổ của gian gác nhà Nhĩ một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non – những màu sắc thân thuộc quá như da thịt hơi thở của đất màu mỡ". Không gian cảnh quê ấy với Nhĩ sao mà vừa thân thương, quen thuộc lại vừa lạ lẫm, mới mẻ đến vậy. Vẻ đẹp ấy ngày nào chẳng có, vẫn luôn thường trực quanh anh nhưng sao bây giờ sắp phải rời xa nó mãi mãi anh mới chợt nhận ra sự giàu có trù phú mĩ lệ của miền đất ấy. Vì thế, trong lòng Nhĩ dâng lên một niềm xót xa, pha lẫn sự nuối tiếc, ân hận: "từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất" nhưng " chưa hề bao giờ đi đến cái bờ bên kia sông Hồng, ngay trước cửa sổ nhà mình". Vì thế trong lòng anh rực lên một niềm khát khao cháy bỏng muốn được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông Hồng để chiêm ngưỡng và tận hưởng vẻ đẹp bình dị và gần gũi ấy. Nhưng tiếc thay, niềm hi vọng đó song hành cùng sự tuyệt vọng, bởi trong tình cảnh bệnh tật của bản thân, giờ đây anh không thể thực hiện được ước muốn tưởng chừng nhỏ bé, giản đơn đó nữa. Đây chính là sự thức tỉnh những giá trị bền vững, bình dị nhưng vô cùng sâu sa trong cuộc sống, những giá trị thường bị con người lãng quên, nhất là khi còn trẻ trước những ham muốn, khát vọng lôi cuốn. Sự thức này chỉ đến với những con người từng trải, đến với Nhĩ khi mà anh đang sắp giã từ cuộc đời này để trở về cõi hư vô. Cho nên, Nhĩ cảm thấy ân hận, xót xa: "Họa chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia, cả trong những nét tiêu sơ, và cái điều riêng anh khám phá thấy giống như một niềm mê say pha lẫn với nỗi ân hận, đau đớn, lời lẽ không bao giờ giải thích hết...".
Do không thể trực tiếp thực hiện được khát vọng đi tới "miền đất mơ ước" ấy nên Nhĩ đã nhờ vả đứa con trai thay mình đặt chân lên bãi bồi bên kia sông. Nhưng cậu bé đã không hiểu được ý cha nên nó chịu đi một cách miễn cưỡng và rồi bị cuốn vào trò chơi phá cờ thế bên dọc đường, có thể làm lỡ mất chuyến đò duy nhất trong ngày. Anh nhớ lại thời trai trẻ của mình cũng ham chơi như thế, vả lại nó cũng chưa nhận ra sự hấp dẫn bên kia sông, nên anh không trách cậu bé. Từ đó, anh rút ra một triết lí có tính chất tổng kết, chiêm nghiệm về qui luật của cuộc đời con người: "Con người ta trên đường đời khó tránh khỏi những điều vòng vèo hoặc chùng chình".
Trong lúc cậu con trai của anh bắt đầu ra đi thực hiện ước mơ của mình thì cũng là khi anh dùng chút tàn lực cuối cùng còn sót lại xê mình ra khỏi tấm nệm, lên chiếc phản gỗ để tới gần bên cửa sổ nhiều hơn. Việc làm ấy khiến anh "mệt lử", "đau nhức" như vừa đi "được nửa vòng trái đất". Còn nửa vòng nữa, anh buộc lòng phải nhờ cậy mấy bọn trẻ con hàng xóm giúp đỡ. Và anh cảm thấy mình thật buồn cười, y như một đứa trẻ toét miệng cười khi đang được tận hưởng sự chăm sóc và chơi với. Đến bên cửa sổ, Nhĩ nhìn thấy xa xa một cánh buồn trên mặt sông. Anh cảm tưởng như chính mình trong tấm áo màu xanh trứng sáo hay chiếc mũ nan rộng vành, như một nhà thám hiểm đang chậm rãi đặt từng bước chân lên cái mặt đất dính phù sa. Nhĩ xúc động: "mặt mũi Nhĩ đỏ rựng một cách khác thường, hai con mắt long lanh chứa một nỗi say mê đầy đau khổ, cả mười đầu ngón tay Nhĩ đang bấu chặt vào cái bậu cửa sổ, những ngón tay vừa bấu chặt vừa run lẩy bẩy. Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó". Hành động đó của Nhĩ thể hiện sự nôn nóng, thức giục con trai hãy mau mau đi đi không lại lỡ mất chuyến đò. Hay đó chính là điều mà tác giả muốn gửi gắm cho chúng ta đừng để mất thời gian vô ích cho những cái "chùng chình", "vòng vèo" trên đường đời mà hãy hướng tới những giá trị đích thực, giản dị, bền vững quanh ta.
Bằng ngòi bút đào sâu đến tận cùng cái thật chứa đầy bí ẩn, với tư tưởng "đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người", Nguyễn Minh Châu đã khắc họa thành công vẻ đẹp trong sáng, dịu dàng của người phụ nữ giàu lòng yêu thương, đức hi sinh, tận tụy vì chồng, vì con của một người vợ, người mẹ. Đó chính là Liên (vợ Nhĩ). Tất cả điều này đã được Nhĩ cảm nhận trong những giầy phút cuối cùng của cuộc đời khi bên cạnh gia đình, trong vòng tay chăm sóc, vỗ về, động viên của vợ con. Lần đầu tiên Nhĩ mới để ý thấy Liên mặc tấm áo vá, những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai của anh và Nhĩ chợt nhận ra tình yêu thương, sự tần tảo cùng sự hi sinh một cách thầm lặng của vợ. Anh đã nói với Liên: "Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm mà em vẫn nín thinh". Và Liên đáp lại câu trả lời ấy: "Có hề sao đâu, miễn là anh sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian phòng này". Và thực sự giờ đây, Nhĩ mới thấm thía hết được vẻ đẹp tâm hồn đó của Liên với lòng biết ơn sâu nặng: "Cũng như cảnh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia sông, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tảo tần và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa và cũng nhờ có điều đó mà sau nhiều ngày tháng bôn tẩu tìm kiếm... Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này". Nhĩ một con người của thời đại mới chỉ biết chạy theo những ước vọng xa vời mà lãng quên đi những vẻ đẹp bình dị, thân quen mà mình đang có. Để rồi khi vấp ngã, khi phải sắp chia xa với cuộc sống này vĩnh viễn thì anh mới chịu nhận ra quê hương, gia đình, người vợ mới là bến đậu, là nơi nương tựa bình yên và vững chắc nhất cho con người sau hành trình đi xa trở về. Mặc dù nhận thức của Nhĩ dẫu có chút muộn màng nhưng dù sao anh cũng đã kịp nhận ra trước sự sai lầm của mình, giúp anh cảm thấy thanh thản, nhẹ nhàng hơn.
Nhân vật Nhĩ là kiểu nhân vật tư tưởng, chứa đựng ý đồ sáng tác nghệ thuật của nhà văn. Tuy nhiên nhân vật không phải là "cái loa phát thanh" của nhà văn mà Nguyễn Minh Châu đã khéo léo dựng lên một cuộc đời, một số phận với một hoàn cảnh éo le, nghịch lí. Để rồi, nhân vật tự đúc rút, chiêm nhiệm ra những chân lí, bài học có tính tổng kết về con người và cuộc đời. Qua đó, ta thấy được tài năng dựng truyện, khắc họa miêu tả tâm lí nhân vật và nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Minh Châu thật tài tình, độc đáo. Khép lại "Bến quê", hình ảnh nhân vật Nhĩ cứ lần lượt hiện lên với biết bao nhiêu những bài học triết lí sâu sắc giàu tính nhân văn của cuộc sống con người. Từ đó, ta càng thấm thía hơn và biết trân trọng hơn những giá trị vững bền, bình dị, gần gũi quanh ta như gia đình, quê hương.
3.Anh thanh niên:
Truyện Lặng lẽ Sa Pa được Nguyễn Thành Long sáng tác năm 1970. Tác phẩm xây dựng từ một tình huống thật đơn giản. Với câu chuyện bàng bạc chất thơ, Tác giả đã đưa người đọc đến với Sa Pa thơ mộng để cảm nhận về những con người lặng lẽ làm việc và lo nghĩ cho đất nước. Nhân vật chính trong truyện là anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu. Suy nghĩ và việc làm của anh thể hiện một vẻ đẹp tâm hồn, một tính cách của thế hệ thanh niên. Có thể nói chất thơ của truyện không chỉ ở những hình ảnh đẹp của thiên nhiên mà còn toát lên từ vẻ đẹp tâm hồn nhân vật chính trong truyện - Anh thanh niên.
Nhân vật chính của truyện - anh thanh niên - chỉ xuất hiện trong chốc lát nhưng là điểm sáng nổi bật nhất trong bức tranh mà tác giả tập trung thể hiện. Sức thu hút của anh chính là ở thái độ và những suy nghĩ về cuộc sống và công việc của một người sốngvà làm việc một mình giữa lặng lẽ của thiên nhiên. Tác giả khắc hoạ nổi bật hình ảnh anh thanh niên ở một hoàn cảnh sống và làm việc thật đặc biệt: Một mình trên đỉnh Yên Sơn, quanh năm suốt tháng giữa cái lặng lẽ mênh mông của cỏ cây, mây núi. Công việc của anh thật gian khổ, thật vất vả. Anh "Đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất". Anh phải dậy vào lúc 1 giờ đêm, khi bên ngoài rét đến nỗi lúc vào lại không ngủ được". Anh kể "Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ: Nó như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió thì giống những nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung" Lời kể ấy chứng tỏ anh đã nếm trải gian khổ để mà hoàn thành công việc. Nhưng cái khó khăn, thách thức lớn nhât đối với anh chính là sự cô đơn thường trực, lúc nào cũng "thèm người".
Đặt nhân vật vào hoàn cảnh thơ mộng mà gian khổ, lãng mạn mà đầy thử thách. Vậy điều gì giúp anh thanh niên vượt qua hoàn cảnh gian khổ, thử thách ấy?
Trước hết, đó chính là sức mạnh của ý thức trách nhiệm và tình yêu đối với công việc. Công việc "Đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất". Công việc gian khổ ấy được anh lặng lẽ hoàn thành. Anh hiểu được nhiệm vụ của anh là "Phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu". Được biết từ việc báo tin về một đám mây khô của anh mà bộ đội ta bắn rơi máy bay địch trên cầu Hàm Rồng, anh " thấy thật hạnh phúc. ". Tinh thần trách nhiệm đã là động lực chính để anh một mình sống, làm việc tận tụy, để anh hiểu được hạnh phúc là làm việc, là cống hiến.
Tác giả để anh thanh niên nói lên những suy nghĩ từ tiếng lòng tha thiết. Đó là những suy nghĩ sâu sắc, nghiêm túc về nghề nghiệp và về công việc. Với công việc, anh nghĩ ". . . Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi sao gọi là một mình được"Đó là tình yêu nghề, sự gắn bó với nghề nghiệp. Phải chăng khi ta yêu thích công việc của mình, thì công việc đem lại cho ta niềm vui, khi đó ta không còn cảm thấy đơn độc. Anh càng hiểu "Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy nhưng cắt bỏ nó đi cháu buồn đến chết mất" Rõ ràng, với anh nghề nghiệp như là lẽ sống. Phải chăng lòng yêu nghề tha thiết ấy, sự gắn bó với nghề nghiệp bằng một tình yêu sâu sắc. Tình yêu nghề đã làm anh không thấy cô đơn dù một mình anh giữa Sa Pa quanh năm với cây cỏ và mây mù.
Không chỉ suy nghĩ sâu sắc về công việc, về nghề nghiệp, anh thanh niên còn có những suy nghĩ về cuộc sống thật sâu sắc, thật trách nhiệm. Anh đã suy nghĩ " người thì ai mà chả "thèm" hở bác? Mình sinh ra là gì. . . mình vì ai mà làm việc?" Đó, rõ ràng, là những trăn trở của anh với cuộc sống. Anh hiểu rằng là con người ai cũng phải làm việc vì sự sống của bản thân và sự sống của cộng đồng. Thật đáng quý là anh đã tách mình ra khỏi những suy nghĩ tầm thường, cách sống tầm thường "Cháu bỗng tự hỏi: cái nhớ xe nhớ người ấy thật ra là cái gì vậy? Nếu là nỗi nhớ phồn hoa đô thị thì xoàng". Có thể nói những suy nghĩ nghiêm túc của anh thanh niên đã bộc lộ tâm hồn trong sáng, cách sống đẹp, một thái độ trách nhiệm với cuộc sống.
Anh đã chiến thắng nỗi cô đơn, sự vắng vẻ, chiến thắng hoàn cảnh bằng một cách sống thật nghiêm túc mà cũng thật lãng mạn. ở một mình nhưng ngôi nhà của anh vẫn rất ngăn nắp, gọn gàng. Đó là ngôi nhà ba gian với cuộc đời riêng của anh thanh niên thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con, một bàn học một giá sách. Anh nuôi gà, trứng ăn không xuể, anh trồng hoa. Trong vườn rất nhiều hoa: Hoa dơn, hoa thược dược vàng, tím, đỏ, hồng phấn, tổ ong. Anh tìm thấy niềm vui từ những trang sách. Tóm lại, trong ngôi nhà ngăn nắp, vườn hoa, chuồng gà, giá sách. . . Những điều đó phản ánh một tâm hồn đẹp, lãng mạn. Tất cả điều đó là do anh tạo ra để chiến thắng sự cô đơn giữa Sa Pa lạnh lẽo và mây mù.
Không chỉ vượt khó để hoàn thành công việc bằng một tình yêu nghề, một ý thức trách nhiệm, anh thanh niện còn luôn quan tâm, tận tuỵ với mọi người. Anh gửi bác lại xe một gói tam thất về cho bác gái đang ốm nặng, chuẩn bị ly trà nóng cho khách đường xa, một làn trứng cho người hoạ sĩ già, tặng hoa cho cô kĩ sư trong lần gặp cũng như khi chia tay. Những cử chỉ quan tâm đó thật tự nhiên, chân thành và chu đáo. Nó thể hiện sự trân trọng yêu thương và quan tâm đến mọi người. Khi người hoạ sĩ kí hoạ về anh, anh đã giới thiệu về một kĩ sư rình xem cách ong lấy phấn, thụ phấn cho hoa su hào để tạo giống su hào to hơn, ngọt hơn cho nhân dân miền Bắc; một đồng chí suốt ngày chờ sét, mười một năm không một ngày xa cơ quan. . . để lập bản đồ sét cho nước ta; anh giới thiệu về người bạn trên đỉnh Pan Xi phăng xa xôi kia. . . Anh đã quan tâm đến những con người thầm lặng đang miệt mài lao động sáng tạo để phục vụ nhân dân. Anh am hiểu, ngưởng mộ, ngợi ca từng công việc, từng con người, tôn vinh sự lao động của mọi người. Ta thấy anh hiện lên bằng một đức tính khiêm nhường, một sự quý trọng lao động sáng tạo, quên mình vì hạnh phúc của nhân dân.
Đọc truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa, ta như đồng cảm với tâm trạng của người hoạ sĩ khi nghĩ về anh. Người con trai ấy đáng yêu thật, nhưng làm ông khó nhọc quá. Đúng là anh đáng yêu thật. Đáng yêu ở tâm hồn, ở cách sống, ở sự tha thiết với nghệ nghiệp để cống hiến. Vẻ đẹp đáng yêu ở anh thanh niên cũng là vẻ đẹp của con người mới đang hăng hái xây dựng đất nước. Vẻ đẹp mà người hoạ sĩ ví von "Thanh niên bây giờ lạ thật ! các anh chị cứ như con bướm" phải chăng đó là vẻ đẹp hồn nhiên muôn màu, có sức hấp dẫn của vẻ đẹp đa dạng và bất ngờ của thế hệ trẻ. Phải chăng từ cách sống, từ tâm hồn của anh thanh niên trong tác phẩm làm người hoạ sĩ cũng như mọi người đọc càng thêm cảm nhận mới mẻ, thêm tin yêu, thêm hy vọng vào thế hệ thanh niên trong công cuộc xây dựng đất nước. Nguyễn Thành Long đã xây dựng một cốt truyện giản dị nhưng gợi nhiều suy nghĩ sâu xa về cách sống. Nhân vật anh thanh niên đã gợi trong lòng ta những cảm xúc đầy tin tưởng, yêu mến, trân trọng về những con người lặng lẽ suy nghĩ, cống hiến xây dựng cuộc sống tươi đẹp của chúng ta.
Nếu như truyện Lặng lẽ sa pa đã ca ngợi những con người lặng lẽ làm việc và cống hiến cho Tổ quốc, thì nhân vật anh thanh niên là tiêu biểu, là trung tâm. Anh thanh niên cũng như bao người khác với công việc lặng lẽ của mình đã làm nền tảng của cuộc sống. Chính anh cũng như bao nhiêu người lao động bên ngoài cuộc sống vượt khó khăn, say mê cống hiến là những người làm nên vẻ đẹp muôn màu của cuộc đời mới. Công việc của anh, thái độ sống của anh, suy nghĩ, tâm hồn anh góp một phần làm nên chất thơ trong trẻo của tác phẩm. Và nên chăng gọi anh là anh hùng thầm lặng với chiến công thầm lặng mà người đọc cảm nhận đầy trân trọng!