Cây dương xỉ thường tên khoa học: Microsorum pteropus, thuộc họPolypodiaceae; có nguồn gốc từ Châu Á.
Cây dương xỉ là cây thân thảo, cây cảnh lá. Cây có thể trồng chậu treo, để bàn hoặc trồng trong bóng râm (trong nhà, văn phòng).
Đặc điểm cây dương xỉ: thân thảo, gần như không thân, cao trung bình khỏang 15 – 30cm, rộng khoảng 15 – 20cm. Cây dương xỉ có nhiều lá nên sum sê.
Lá dương xỉ là lá kép, dài khoảng 20 – 35cm, giống hình chiếc lược, thon nhọn ở đầu; lá non cuộn tròn, có lông. Lá dương xỉ hay được dùng để cắm hoa.
_Tham Khảo:
Cây dương xỉ là cây thân thảo, ưa ẩm, thường sống ở những nơi ẩm thấp.
Cây dương xỉ hay dương xỉ thường tên khoa học: Microsorum pteropus, thuộc họPolypodiaceae; có nguồn gốc từ Châu Á.
Cây dương xỉ là cây thân thảo, cây cảnh lá. Cây có thể trồng chậu treo, để bàn hoặc trồng trong bóng râm (trong nhà, văn phòng).
Đặc điểm cây dương xỉ: thân thảo, gần như không thân, cao trung bình khỏang 15 – 30cm, rộng khoảng 15 – 20cm. Cây dương xỉ có nhiều lá nên sum sê.
Lá dương xỉ là lá kép, dài khoảng 20 – 35cm, giống hình chiếc lược, thon nhọn ở đầu; lá non cuộn tròn, có lông. Lá dương xỉ hay được dùng để cắm hoa.
Cây dương xỉ thích hợp với mọi điều kiện tự nhiên bình thường, rất dễ trồng và chăm sóc; nếu thời tiết mát mẻ, độ ẩm nhiều thì cây phát triển mạnh hơn.
Dương xỉ là cây có khả năng hấp thụ Aldehyde formic, ức chế xylen và toluene từ máy vi tính và máy in, khiến không khí trong lành hơn, tinh thần thoải mái hơn. Lá và rễ cây dương xỉ được dùng làm thuốc chữa bệnh: thận hư, bong gân, cầm máu…
Cây dương xỉ có thể trồng trong bồn, chậu đứng, chậu treo để làm cảnh hoặc để trang trí nhiều nơi như: lối đi, gốc cây lớn, đồi cảnh, hòn non bộ…Cây dương xỉ đặt trong phòng làm việc cũng rất thích hợp.
Cây Dương Xỉ:
Danh pháp khoa học: Nephrolepis cordifolia
Trong môi trường tự nhiên, cây Dương Xỉ thường thấy mọc ở vùng núi đá, trên lề rừng nhiệt đới hoặc mọc phụ sinh trên cây ở phần ẩm ướt của vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới.
Một cây dương xỉ với tán lá thẳng đứng hoặc rủ thường cao khoảng 50 cm, đôi khi nó đát tới 1 m. Cây dương xỉ có thân rễ hoặc thân bò lan và thường phát triển một số củ hình cầu có thịt đường kính trên 15 mm. Các thân rễ hoặc thân bò lan và phần cuống lá lược được bao phủ bề ngoài bởi nhiều vảy bắc màu nâu dài.
Tán lá có một thân cây màu nâu dài đến 15 cm và sắp xếp các lá chét theo nhiều cánh khác nhau. Lá chét (thường dài 10 – 35 mm và rộng 4 – 11 mm, hiếm khi dài đến 60 mm) có mép khía tai bèo hoặc rìa có răng cưa nhỏ lượn tròn và thường không có lông. Đỉnh lá chét tương đối rộng và hơi tròn, phần gần cuống thường chồng chéo và hơi chia thùy ở một bên. Lá lược của cây dương xỉ có xu hướng màu xanh xỉn ở nơi bóng râm và màu xanh lá cây sáng đến màu xanh lá cây vàng khi trồng một vị trí đầy nắng.
Dưới lá lược trưởng thành của cây dương xỉ sẽ có những đốm màu nâu hình tròn đến hình bầu dục. Đây sẽ là cấu trúc sinh sản của dương xỉ (ổ túi bào tử) và chứa rất nhiều bào tử. Chúng được bảo vệ bởi một vỏ áo hình bầu dục. Những ổ túi bào tử được sắp xếp 2 hàng trên mặt dưới của lá chét, mỗi hàng nằm ở khoảng giữa mép và gân. Cây dương xỉ sinh sản bằng bào tử và sinh dưỡng qua thân rễ, thường cũng nhờ củ ngầm. Bào tử cây dương xỉ thường được lan truyền nhờ gió và nước.
Cây dương xỉ thích hợp với mọi điều kiện tự nhiên bình thường, rất dễ trồng và chăm sóc; nếu thời tiết mát mẻ, độ ẩm nhiều thì cây phát triển mạnh hơn. Cây dương xỉ có khả năng hấp thụ Aldehyde formic, ức chế xylen và toluene từ máy vi tính và máy in, khiến không khí trong lành hơn, tinh thần thoải mái hơn. Lá và rễ cây dương xỉ được dùng làm thuốc chữa bệnh: thận hư, bong gân, cầm máu…
Cây dương xỉ là một loài cây dễ trồng và chăm sóc. Cây dương xỉ thường được trồng chậu treo trang trí ban công, sân tượng, quá cafe, nhà hàng… Ngoài ra, cây dương xỉ còn dùng làm cây trồng viền- cây trồng nền, trồng tường cây hoặc chậu để bàn.