I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Về tác giả:
Trần Tuấn Khải (1895-1983) bút hiệu á Nam, quê ở làng Quang Xán, xã Mĩ Hà, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định. Ông thường mượn những đề tài lịch sử hoặc những biểu tượng nghệ thuật để bộc lộ lòng yêu nước của đồng bào và bày tỏ khát vọng độc lập, tự do của mình.
Tác phẩm chính của Trần Tuấn Khải bao gồm các tập thơ: Duyên nợ phù sinh I, II; Bút quan hoài I, II; Với sơn hà I, II...
2. Về thể loại:
Song thất lục bát là thể thơ cách luật cổ điển thuần tuý của Việt Nam. Đơn vị cơ bản là một khổ thơ gồm hai câu bảy chữ và hai câu sáu tám tiếp theo. Nếu mở đầu bằng hai câu sáu tám trước thì gọi là lục bát gián thất. Trừ điểm sai biệt rất nhỏ này, lục bát gián thất hoàn toàn thống nhất với song thất lục bát về cội nguồn cũng như cách luật. Song thất lục bát, do đó, có thể được xem là một thuật ngữ chung.
Song thất lục bát được hình thành trên cơ sở tổ hợp thể thơ lục bát nhưng không phải với thể thất ngôn của Trung Quốc mà với lối thơ bảy tiếng vốn có của Việt Nam:
- "Bói ra ma quét nhà ra rác".
- "Được lòng ta, xót xa lòng người".
- "Giọt máu đào hơn ao nước lã".
(Tục ngữ)
- "Ăn, thì ăn cơm thừa canh cặn
Ăn, thì ăn môn sượng khoai sùng".
(Lục súc tranh công)
- "áo xông hương của chàng vắt mắc,
Đêm em nằm, em đắp lấy hơi
Gửi khăn, gửi túi, gửi lời,
Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa".
(Ca dao)
Qua sự gia công dần dần của nhà văn, đến thế kỉ XVIII, song thất lục bát đã đạt đến mức hoàn thiện qua tác phẩm của Nguyễn Gia Thiều, và dịch phẩm của Đoàn Thị Điểm, Phan Huy Vịnh, v.v... Ngày nay song thất lục bát vẫn còn sức sống của nó. Trong Ba mươi năm đời ta có Đảng, Tố Hữu sử dụng thể thơ này khá thành công.
ở dạng hoàn chỉnh nhất, song thất lục bát tuân theo cách luật như sau. Về gieo vần: tiếng cuối câu bảy trên bắt vần trắc xuống tiếng thứ năm câu bảy dưới; tiếng cuối câu bảy dưới bắt vần bằng với tiếng cuối câu sáu; tiếng cuối câu sáu lại bắt vần bằng với tiếng thứ sáu câu tám; tiếng cuối câu tám lại bắt vần bằng với tiếng thứ ba, hoặc tiếng thứ năm của câu bảy đầu của khổ thơ sau. Như thế mỗi khổ thơ có một vần trắc và ba vần bằng. Trừ câu sáu chỉ có vần chân, ba câu kia vừa có vần chân vừa có vần lưng. Về phối thanh, thì tiếng thứ năm và tiếng thứ bảy của câu bảy trên nhất định phải bằng và trắc, câu bảy dưới thì ngược lại. Bằng trắc trong hai câu sáu tám giống như trong thơ lục bát. Về ngắt nhịp, thì hai câu bảy theo đúng như thơ bảy chữ Việt Nam, nghĩa là 3/4 hoặc 3/2/2. Hai câu sáu tám cũng linh hoạt như thơ lục bát.
[...] Cũng như lục bát, song thất lục bát đã cô kết được nhiều phẩm chất thẩm mĩ của tiếng Việt, nhất là về phương diện nhạc điệu... Nếu câu thơ lục bát có khả năng miêu tả và kể chuyện thích hợp với loại truyện, thì song thất lục bát lại giàu giá trị biểu cảm, nhiều sức biểu hiện những trạng thái tâm hồn và xúc cảm, thích hợp với các khúc ngâm dài” (Phương Lựu – Từ điển văn học, tập hai, 1984).
3. Về tác phẩm:
a) Thời quân Minh sang xâm lược nước ta, Nguyễn Phi Khanh, đại thần của triều đình, bố của Nguyễn Trãi bị chúng bắt đưa sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi muốn đi theo để phụng dưỡng cha già nhưng Nguyễn Phi Khanh đã khuyên con ở lại để đền nợ nước, trả thù nhà. Đến biên giới thì hai cha con chia tay nhau. Nguyễn Trãi tìm đến gia nhập nghĩa quân Lam Sơn và sau đó, bằng ngòi bút của mình, đã đóng góp phần rất lớn trong việc đánh tan quân xâm lược, giải phóng đất nước.
b) Xúc cảm buồn đau được thể hiện bằng một giọng thơ thống thiết, lâm li. Thể thơ song thất lục bát rất thích hợp với cảm xúc và giọng điệu này. Hai câu bảy chữ như trào dâng, dồn dập. Hai câu lục bát da diết, chậm mà xoáy sâu, nhức nhối. Những thanh trắc ở câu bảy, hiệp vần ở hai câu lục bát làm tăng nhạc tính ở từng khổ thơ:
*Bối cảnh không gian biên ải được gợi ra ở 4 câu thơ đầu
- Từ điểm chia li này, người cha sẽ ra đi vĩnh viễn, vĩnh biệt tổ quốc, vĩnh biệt những người ruột thịt. Cảnh vật sầu thảm thê lương (ải Bắc, mây sầu, gió thảm, hổ thét, chim kêu...) càng gợi buồn đau cho lòng người.
- Hoàn cảnh éo le và tâm trạng của nhân vật trữ tình (4 câu thơ tiếp): cha bị áp giải sang Tàu, một đi không trở lại, con muốn theo cha để làm tròn đạo hiếu nhưng thù nhà nợ nước còn đấy, cha đành dằn lòng khuyên con ở lại vì nghĩa lớn. Tâm trạng : đau đớn, xót xa vì chia li và cũng vì thù nhà nợ nước chưa trả.
Những câu thơ mở đầu đoạn có tác dụng tạo tiền đề, tâm thế. Trong không gian và tâm trạng chia li đau buồn như thế lời khuyên của người cha (thể hiện ở đoạn sau) có ý nghĩa như những lời trăng trối thiêng liêng.
* 20 câu thơ tiếp theo (phần 2) có sự kết hợp giữa tự sự (kể), miêu tả và biểu cảm. Những vần thơ thấm đẫm huyết lệ có sức lay động lớn
- Bốn câu, từ “Giống Hồng Lạc...” đến “...xưa nay kém gì !” : tác giả nhập vai vào người cha (Nguyễn Phi Khanh) để gợi nhắc cho con về niềm tự hào dân tộc.
- Tám câu tiếp, từ “Than vận nước...” đến “...dễ còn thương đâu !” gợi tả thực cảnh thương đau của đất nước khi bị xâm lăng. Lưu ý các hình ảnh : khói lửa bừng bừng, xương rừng máu sông, thành tung quách vỡ, bỏ vợ lìa con , xiêu tán hao mòn.
- Bốn câu tiếp, từ “Thảm vong quốc...” đến “...lầm than nỗi này !” trực tiếp thể hiện nỗi đau mất nước, xót xa trước cảnh “nòi giống lầm than”. Lưu ý những từ ngữ diễn tả cảm xúc : kể sao xiết kể, nhường xé tâm can, ngậm ngùi, khóc, than.
- Bốn câu, từ “Khói Nùng Lĩnh...” đến “...đàn sau đó mà?” : nỗi uất hận ngút trời thấm tràn sông núi, dày vò lòng người. Lưu ý các từ ngữ : xây khối uất, vật cơn sầu, càng nói càng đau, lấy ai tế độ. Người cha đang trở lại với bầu tâm sự muốn nhắn nhủ cùng con.
c) Phần cuối đoạn trích người cha nói đến tình thế bất lực của mình (tuổi già sức yếu, lỡ sa cơ), nhắc nhớ sự nghiệp của tổ tông (vì nước gian lao) để kích thích cái chí gánh vác giang sơn, đặt niềm tin, trao gửi cho con trả nợ nước, báo thù nhà.
d) Mượn xưa để nói nay, mượn người để nói ta vốn là thủ pháp có từ lâu đời trong truyền thống văn học. Trần Tuấn Khải lựa chọn chuyện chia li giữa hai cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi để gửi gắm tâm sự, nỗi đau mất nước nhằm khơi gợi tinh thần yêu nước thương nòi khi non sông đang bị giày xéo bởi gót giày thực dân. Bằng tình cảm sâu đậm, mãnh liệt, với một giọng điệu thống thiết, tác giả của Hai chữ nước nhà đã thực hiện bổn phận, sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ yêu nước. Thơ ông thôi thúc lòng người, khích lệ mọi người tranh đấu cho giang sơn độc lập, tự do.
II. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG
Bài thơ được viết theo thể song thất lục bát, trong đó có câu song thất có nhịp 2/2 và 4/4 cần tập đọc nhiều lần để thể hiện đúng nhịp thơ, giọng thơ. Hai câu song thất đọc nhịp ngắt dứt khoát, hai câu lục bát đọc chậm, dàn trải hơn để thể hiện những cảm xúc kín đáo sâu xa.
Câu 1. Em có nhận xét gì về giọng điệu đoạn thơ này ? Thể thơ truyền thống song thất lục bát đã góp phần vào việc thể hiện giọng điệu đó như thế nào ? Bài thơ Hai chữ nước nhà sáng tác theo thể song thất lục bát. Tác dụng của thể thơ trong việc biểu hiện cảm xúc của bài thơ này là : - Thể thơ song thất lục bát vốn là thể thơ cha ông chúng ta xưa dùng để viết ngâm khúc. - Những vẫn trắc xô xát giữa câu, réo rắt, da diết, rất hợp để diễn đạt nỗi uất ức, nỗi căm giận, lời mắng nhiếc, tiếng thở than, sự nghĩ ngơi, nỗi u sầu… - Tâm trạng xã hội khoảng 1926 uất ức, bi tráng, điệu lục bát du dương êm hòa không đủ, mà đòi hỏi điệu thơ như song thất lục bát để toát, để thoát, để xé nỗi niềm uất đè nặng tâm hồn ». (theo Xuân Diệu) Câu 2. Đoạn thơ có thể chia làm 3 phần : 8 câu đầu, 20 câu tiếp theo và 8 câu cuối. Em hãy tìm hiểu ý chính từng phần. Đoạn thơ có thể chia làm 3 phần : 8 câu đầu, 20 câu tiếp theo và 8 câu cuối, có những ý chính như sau : Phần 1 : Tâm trạng của người cha trong cảnh ngộ éo le, đau đớn. Phần 2 : Cảnh đất nước trong nỗi đau thương, tang tóc. Phần 3 : Lời than về thế bất lực của người cah và lời trao gửi cho con. Câu 3. Ở 8 câu đầu, hãy tìm và phân tích những chi tiết nghệ thuật biểu hiện các mặt : - Bối cảnh không gian. + Cuộc chia li diễn ra ở nơi biên ải xa xôi, ảm đạm heo hút : « ải Bắc, mây sầu, gió thảm ». + Đây cũng là nơi tận cùng của đất nước để rồi người cha chia biệt vĩnh viễn với quê hương, với Tổ quốc mến yêu. + Tâm trạng ấy mang nặng màu tang tóc, thê lương và cảnh vật ấy lại càng như giục cơn sầu trong lòng người. + Sức gợi cảm là ở đó, cho nên dù từ ngữ có cũ mòn, ước lệ, nó vẫn tạo được không khí chung cho toàn bài. - Hoàn cảnh éo le và tâm trạng của hai nhân vật cha và con : + Hoàn cảnh thật éo le : ++ Cha bị giải sang Tàu, không mong ngày trở lại. ++ Con muốn đi theo để phụng dưỡng cha già cho tròn đạo hiếu. ++ Nhưng cha dặn lòng khuyên con trở lại để lo tính việc trả thù nhà, đền nợ nước. + Cả hai cha con đều đau đớn đến tột cùng vì nước mất nhà tan, cha con li biệt… Bởi vậy máu và lệ hòa quyện là sự chân thực, sâu thẳm tận đáy lòng, không còn sự sáo mòn nào cả. - Trong bối cảnh không gian và tâm trạng ấy, lời khuyên của người cha có ý nghĩa như thế nào ? + Lời khuyên răn, dặn dò có ý nghĩa như một lời trăng trối. + Nó thiêng liêng, xúc động khiến người nghe phải khắc cốt ghi tâm, bàn tay phải nắm chặt chuôi gươm, trái tim phải có nhịp đập mạnh hơn lúc nào hết. Câu 4. Phân tích đoạn thơ thứ hai. - Tâm sự yêu nước của tác giả thể hiện qua những tình cảm nào ? Ở năm 20 đầu thế kỉ XX, hiện tình đất nước đang diễn ra rất đen tối. Một lũ « khác giống » tàn bạo đang gây nên biết bao « thảm họa xương rừng máu rộng » và cảnh « xiêu tán hao mòn ». Sức gợi cảm của bài thơ là ở những hình ảnh làm đau nhói, xé buốt con tim. + Tác giả đã nhập vai người trong cuộc : Đó là một nạn nhân đang đi vào cõi chết nhưng vẫn không quên kể tội ác quân xâm lược. + Tác giả nhập cuộc nên thể hiện cảm xúc chân thành với nỗi đau da diết làm xúc động tận đáy lòng người đọc. Câu 5. Trong phần cuối đoạn thơ, người cha nói đến cái thế bất lực của mình và sự nghiệp tổ tông là để nhằm mục đích gì ? Trong phần cuối đoạn thơ người cha nói đến cái thế bất lực của mình : - Tuổi già sức yếu. - Lỡ bước sa cơ. - Đành chịu bó tay. Nhằm mục đích kích thích, hun đúc các ý chí thay cha gánh vác việc non sông, đất nước. Lời của người cha như tiếng kêu cứu, người con không thể thờ ơ vì sức nặng tình cảm cha con. Câu 6. Nghệ thuật. Bài thơ viết theo thể song thất lục bát, đem đến cho người đọc một sự xúc động sâu sắc. Trần Tuấn Khải đã sử dụng nhiều hình ảnh và từ ngữ có tính ước lệ, sáo mòn nhưng vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ. « Điệu song thất lục bát vốn là thể cha ông chúng ta xưa dùng để viết ngâm kuhcs, những vần trắc (yên vận) xô xát giữa câu, réo rắt, da diết, rất hợp để diễn đạt nỗi uất ức, nỗi căm giận, lời mắng nhiếc, tiếng thở than, sự nghĩ ngợi, nỗi u sầu… Tâm trạng xã hội khoanrg1926 uất ức, bi tráng, điệu lục bát du dương êm hòa không đủ, mà đòi hỏi điệu thơ như song thất lục bát để thoát, để xé nỗi niềm uất đè nặng tâm hồn ». (Xuân Diệu) Câu 7. Ý nghĩa. Bài thơ Hai chữ nước nhà là những cảm xúc chân thành, mãnh liệt, vừa gợi tả tâm trạng khắc khoải, đau thương của nhân vật lịch sử, vừa « rung vào dây đàn yêu nước thương nòi của mọi lòng người ». II. Luyện tập Người ta nói thơ Trần Tuấn Khải sử dụng nhiều hình ảnh và từ ngữ có tính ước lệ, sáo mòn. Hãy tìm trong đoạn thơ này một số hình ảnh, từ ngữ như thế và cho biết tạo sao nó vấn có sức truyền cảm mạnh mẽ. Trong bài thơ Hai chữ nước nhà, Trần Tuấn Khải đã sử dụng nhiều hình ảnh và từ ngữ có tính ước lệ, sáo mòn nhưng vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ví dụ : « Ải Bắc, mây sầu, gió thảm, hỗ thét, chim kêu, hạt máu nóng, hồn nước, Hồng lạc vong quốc ». Đây là những cảm xúc chân thành, mãnh liệt, vừa gợi tả tâm trạng khắc khoải, đau thương của nhân vật lịch sử, vừa « rung vào dây đàn yêu nước thương nòi của mọi lòng người ».
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Về tác giả:
Trần Tuấn Khải (1895-1983) bút hiệu á Nam, quê ở làng Quang Xán, xã Mĩ Hà, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định. Ông thường mượn những đề tài lịch sử hoặc những biểu tượng nghệ thuật để bộc lộ lòng yêu nước của đồng bào và bày tỏ khát vọng độc lập, tự do của mình.
Tác phẩm chính của Trần Tuấn Khải bao gồm các tập thơ: Duyên nợ phù sinh I, II; Bút quan hoài I, II; Với sơn hà I, II...
2. Về thể loại:
Song thất lục bát là thể thơ cách luật cổ điển thuần tuý của Việt Nam. Đơn vị cơ bản là một khổ thơ gồm hai câu bảy chữ và hai câu sáu tám tiếp theo. Nếu mở đầu bằng hai câu sáu tám trước thì gọi là lục bát gián thất. Trừ điểm sai biệt rất nhỏ này, lục bát gián thất hoàn toàn thống nhất với song thất lục bát về cội nguồn cũng như cách luật. Song thất lục bát, do đó, có thể được xem là một thuật ngữ chung.
Song thất lục bát được hình thành trên cơ sở tổ hợp thể thơ lục bát nhưng không phải với thể thất ngôn của Trung Quốc mà với lối thơ bảy tiếng vốn có của Việt Nam:
- "Bói ra ma quét nhà ra rác".
- "Được lòng ta, xót xa lòng người".
- "Giọt máu đào hơn ao nước lã".
(Tục ngữ)
- "Ăn, thì ăn cơm thừa canh cặn
Ăn, thì ăn môn sượng khoai sùng".
(Lục súc tranh công)
- "áo xông hương của chàng vắt mắc,
Đêm em nằm, em đắp lấy hơi
Gửi khăn, gửi túi, gửi lời,
Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa".
(Ca dao)
Qua sự gia công dần dần của nhà văn, đến thế kỉ XVIII, song thất lục bát đã đạt đến mức hoàn thiện qua tác phẩm của Nguyễn Gia Thiều, và dịch phẩm của Đoàn Thị Điểm, Phan Huy Vịnh, v.v... Ngày nay song thất lục bát vẫn còn sức sống của nó. Trong Ba mươi năm đời ta có Đảng, Tố Hữu sử dụng thể thơ này khá thành công.
ở dạng hoàn chỉnh nhất, song thất lục bát tuân theo cách luật như sau. Về gieo vần: tiếng cuối câu bảy trên bắt vần trắc xuống tiếng thứ năm câu bảy dưới; tiếng cuối câu bảy dưới bắt vần bằng với tiếng cuối câu sáu; tiếng cuối câu sáu lại bắt vần bằng với tiếng thứ sáu câu tám; tiếng cuối câu tám lại bắt vần bằng với tiếng thứ ba, hoặc tiếng thứ năm của câu bảy đầu của khổ thơ sau. Như thế mỗi khổ thơ có một vần trắc và ba vần bằng. Trừ câu sáu chỉ có vần chân, ba câu kia vừa có vần chân vừa có vần lưng. Về phối thanh, thì tiếng thứ năm và tiếng thứ bảy của câu bảy trên nhất định phải bằng và trắc, câu bảy dưới thì ngược lại. Bằng trắc trong hai câu sáu tám giống như trong thơ lục bát. Về ngắt nhịp, thì hai câu bảy theo đúng như thơ bảy chữ Việt Nam, nghĩa là 3/4 hoặc 3/2/2. Hai câu sáu tám cũng linh hoạt như thơ lục bát.
[...] Cũng như lục bát, song thất lục bát đã cô kết được nhiều phẩm chất thẩm mĩ của tiếng Việt, nhất là về phương diện nhạc điệu... Nếu câu thơ lục bát có khả năng miêu tả và kể chuyện thích hợp với loại truyện, thì song thất lục bát lại giàu giá trị biểu cảm, nhiều sức biểu hiện những trạng thái tâm hồn và xúc cảm, thích hợp với các khúc ngâm dài” (Phương Lựu – Từ điển văn học, tập hai, 1984).
3. Về tác phẩm:
a) Thời quân Minh sang xâm lược nước ta, Nguyễn Phi Khanh, đại thần của triều đình, bố của Nguyễn Trãi bị chúng bắt đưa sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi muốn đi theo để phụng dưỡng cha già nhưng Nguyễn Phi Khanh đã khuyên con ở lại để đền nợ nước, trả thù nhà. Đến biên giới thì hai cha con chia tay nhau. Nguyễn Trãi tìm đến gia nhập nghĩa quân Lam Sơn và sau đó, bằng ngòi bút của mình, đã đóng góp phần rất lớn trong việc đánh tan quân xâm lược, giải phóng đất nước.
b) Xúc cảm buồn đau được thể hiện bằng một giọng thơ thống thiết, lâm li. Thể thơ song thất lục bát rất thích hợp với cảm xúc và giọng điệu này. Hai câu bảy chữ như trào dâng, dồn dập. Hai câu lục bát da diết, chậm mà xoáy sâu, nhức nhối. Những thanh trắc ở câu bảy, hiệp vần ở hai câu lục bát làm tăng nhạc tính ở từng khổ thơ:
*Bối cảnh không gian biên ải được gợi ra ở 4 câu thơ đầu
- Từ điểm chia li này, người cha sẽ ra đi vĩnh viễn, vĩnh biệt tổ quốc, vĩnh biệt những người ruột thịt. Cảnh vật sầu thảm thê lương (ải Bắc, mây sầu, gió thảm, hổ thét, chim kêu...) càng gợi buồn đau cho lòng người.
- Hoàn cảnh éo le và tâm trạng của nhân vật trữ tình (4 câu thơ tiếp): cha bị áp giải sang Tàu, một đi không trở lại, con muốn theo cha để làm tròn đạo hiếu nhưng thù nhà nợ nước còn đấy, cha đành dằn lòng khuyên con ở lại vì nghĩa lớn. Tâm trạng : đau đớn, xót xa vì chia li và cũng vì thù nhà nợ nước chưa trả.
Những câu thơ mở đầu đoạn có tác dụng tạo tiền đề, tâm thế. Trong không gian và tâm trạng chia li đau buồn như thế lời khuyên của người cha (thể hiện ở đoạn sau) có ý nghĩa như những lời trăng trối thiêng liêng.
* 20 câu thơ tiếp theo (phần 2) có sự kết hợp giữa tự sự (kể), miêu tả và biểu cảm. Những vần thơ thấm đẫm huyết lệ có sức lay động lớn
- Bốn câu, từ “Giống Hồng Lạc...” đến “...xưa nay kém gì !” : tác giả nhập vai vào người cha (Nguyễn Phi Khanh) để gợi nhắc cho con về niềm tự hào dân tộc.
- Tám câu tiếp, từ “Than vận nước...” đến “...dễ còn thương đâu !” gợi tả thực cảnh thương đau của đất nước khi bị xâm lăng. Lưu ý các hình ảnh : khói lửa bừng bừng, xương rừng máu sông, thành tung quách vỡ, bỏ vợ lìa con , xiêu tán hao mòn.
- Bốn câu tiếp, từ “Thảm vong quốc...” đến “...lầm than nỗi này !” trực tiếp thể hiện nỗi đau mất nước, xót xa trước cảnh “nòi giống lầm than”. Lưu ý những từ ngữ diễn tả cảm xúc : kể sao xiết kể, nhường xé tâm can, ngậm ngùi, khóc, than.
- Bốn câu, từ “Khói Nùng Lĩnh...” đến “...đàn sau đó mà?” : nỗi uất hận ngút trời thấm tràn sông núi, dày vò lòng người. Lưu ý các từ ngữ : xây khối uất, vật cơn sầu, càng nói càng đau, lấy ai tế độ. Người cha đang trở lại với bầu tâm sự muốn nhắn nhủ cùng con.
c) Phần cuối đoạn trích người cha nói đến tình thế bất lực của mình (tuổi già sức yếu, lỡ sa cơ), nhắc nhớ sự nghiệp của tổ tông (vì nước gian lao) để kích thích cái chí gánh vác giang sơn, đặt niềm tin, trao gửi cho con trả nợ nước, báo thù nhà.
d) Mượn xưa để nói nay, mượn người để nói ta vốn là thủ pháp có từ lâu đời trong truyền thống văn học. Trần Tuấn Khải lựa chọn chuyện chia li giữa hai cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi để gửi gắm tâm sự, nỗi đau mất nước nhằm khơi gợi tinh thần yêu nước thương nòi khi non sông đang bị giày xéo bởi gót giày thực dân. Bằng tình cảm sâu đậm, mãnh liệt, với một giọng điệu thống thiết, tác giả của Hai chữ nước nhà đã thực hiện bổn phận, sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ yêu nước. Thơ ông thôi thúc lòng người, khích lệ mọi người tranh đấu cho giang sơn độc lập, tự do.
II. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG
Bài thơ được viết theo thể song thất lục bát, trong đó có câu song thất có nhịp 2/2 và 4/4 cần tập đọc nhiều lần để thể hiện đúng nhịp thơ, giọng thơ. Hai câu song thất đọc nhịp ngắt dứt khoát, hai câu lục bát đọc chậm, dàn trải hơn để thể hiện những cảm xúc kín đáo sâu xa.
Câu 1: Đọc diễn cảm đoạn thơ. Em có nhận xét gì về giọng điệu của đoạn thơ này. Thể thơ song thất lục bát (mà em đã quen qua các đoạn trích tác phẩm Chinh phụ ngâm học ở lớp 7) đã góp phần vào việc thể hiện giọng điệu đó như thế nào?
Đoạn thơ là lời trăng trối của người cha đối với con trước giờ vĩnh biệt, trong cảnh nước mất nhà tan. Lời người cha sâu nặng ân tình và tràn đầy nỗi xót xa, đau đớn. Giọng thơ thống thiết, lâm li rất phù hợp với nội dung đoạn trích. Cách ngắt nhịp, những thanh trắc nằm giữa hai câu 7, âm điệu của thể thơ song thất lục bát đã làm phong phú hơn chất nhạc của từng khổ thơ và rất thích hợp khi diễn tả tiếng lòng sầu thảm, nỗi căm hờn của nhân vật người cha.Câu 2. Đoạn thơ có thể chia làm ba phần : 8 câu đầu, 20 câu tiếp theo và 8 câu cuối. Em hãy tìm hiểu ý chính từng phần. Gợi ý Đoạn trích thơ có thể chia làm ba phần:
Phần 1 (8 câu đầu): Tâm trạng của người cha trong cảnh ngộ éo le. Phần 2 (20 câu tiếp): Đất nước trong cảnh đau thương, tang tóc. Phần 3 (8 câu còn lại): Sự bất lực của người cha và lời trao gửi, dặn dò con.Câu 3. Ở 8 câu thơ đầu, hãy tìm và phân tích những chi tiết nghệ thuật biểu hiện:
Bối cảnh không gian. Hoàn cảnh éo le và tâm trạng của hai nhân vật cha và con. Trong bối cảnh không gian và tâm trạng ấy, lời khuyên của người cha có ý nghĩa như thế nào?Gợi ý:
Bối cảnh không gian. Cuộc chia li diễn ra ở nơi biên ải xa xôi, ảm đạm heo hút: "ải Bắc, mây sầu, gió thảm". Đây cũng là nơi tận cùng của đất nước để rồi người cha chia biệt vĩnh viễn với quê hương, với Tổ quốc mến yêu. Tâm trạng ấy mang nặng màu tang tóc, thê lương và cảnh vật ấy lại càng như giục cơn sầu trong lòng người. Sức gợi cảm là ở đó, cho nên dù từ ngữ có cũ mòn, ước lệ, nó vẫn tạo được không khí chung cho toàn bài. Hoàn cảnh éo le và tâm trạng của hai nhân vật cha và con: Hoàn cảnh thật éo le Cha bị giải sang Tàu, không mong ngày trở lại. Con muốn đi theo để phụng dưỡng cha già cho tròn đạo hiếu. Nhưng cha dặn lòng khuyên con trở lại để lo tính việc trả thù nhà, đền nợ nước. Cả hai cha con đều đau đớn đến tột cùng vì nước mất nhà tan, cha con li biệt… Bởi vậy máu và lệ hòa quyện là sự chân thực, sâu thẳm tận đáy lòng, không còn sự sáo mòn nào cả. Trong bối cảnh không gian và tâm trạng ấy, lời khuyên của người cha có ý nghĩa như thế nào ? Lời khuyên răn, dặn dò có ý nghĩa như một lời trăng trối. Nó thiêng liêng, xúc động khiến người nghe phải khắc cốt ghi tâm, bàn tay phải nắm chặt chuôi gươm, trái tim phải có nhịp đập mạnh hơn lúc nào hết.Câu 4. Phân tích đoạn thơ thứ hai.
Tâm sự yêu nước của tác giả thể hiện qua những tình cảm nào? Ở năm 20 đầu thế kỉ XX, hiện tình đất nước đang diễn ra rất đen tối. Một lũ "khác giống" tàn bạo đang gây nên biết bao "thảm họa" xương rừng máu rộng" và cảnh "xiêu tán hao mòn". Sức gợi cảm của bài thơ là ở những hình ảnh làm đau nhói, xé buốt con tim. Tác giả đã nhập vai người trong cuộc: Đó là một nạn nhân đang đi vào cõi chết nhưng vẫn không quên kể tội ác quân xâm lược. Tác giả nhập cuộc nên thể hiện cảm xúc chân thành với nỗi đau da diết làm xúc động tận đáy lòng người đọc.Câu 5. Trong phần cuối đoạn thơ, người cha nói đến cái thế bất lực của mình và sự nghiệp tổ tông là để nhằm mục đích gì?
Trong phần cuối đoạn thơ người cha nói đến cái thế bất lực của mình: Tuổi già sức yếu. Lỡ bước sa cơ. Đành chịu bó tay. Nhằm mục đích kích thích, hun đúc các ý chí thay cha gánh vác việc non sông, đất nước. Lời của người cha như tiếng kêu cứu, người con không thể thờ ơ vì sức nặng tình cảm cha con.