1. Mở bài:
– Hồ Chủ tịch là vị lãnh tụ vĩ đại của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam.– Trong đời sống, tác phong của Bác rất tự nhiên, giản dị.
– Lời nói và bài viết để tuyên truyền các mạng của Bác cũng rât giản dị, trong sáng vì Bác muốn mọi người dễ hiểu, dễ nhớ và dễ làm theo.
2. Thân bài:
* Lấy một số dẫn chứng để chứng minh.
a) Trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp:
– Bác viết nhiều bài ca để giác ngộ, vận động quần chúng tham gia cách mạng, đoàn kết đánh giặc cứu nước. (Bài ca Việt Minh, Bài ca sợi chỉ, Bài ca binh lính, Bài ca đoàn kết…)
– Thơ chúc tết 1947 là lời kêu gọi đồng bào quyết tâm kháng chiến, bảo vệ chủ quyền tự do, độc lập vừa giành được từ tay Pháp, Nhật.
– Mừng xuân: 1949 là lời động viên nhân dân cả nước thi đua đánh giặc, thi đua sản xuất, là niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng.
b) Thời kì chống Mĩ cứu nước:
– Bài thơ chúc Tết năm 1956, Bác Hồ hào nhân dân cả nước sát cánh đồng lòng. Miền Bắc thi đua xây dựng xã hội chủ nghĩa, miền Nam giữ vững thành đồng… Và khẳng định nước nhà sẽ hòa bình, thống nhất.
– Mừng xuân 1969 là bài thơ xuân cuối cùng của Bác. Bài thơ tổng kết ngắn gọn và chính xác tình hình năm cũ, mở ra một tương lai tươi sáng của cách mạng trong năm mới, đồng thời chỉ rõ mục tiêu phấn đấu là đánh cho Mĩ cút, ngụy nhào để giải phóng miền Nam, Bắc – Nam sum họp một nhà.
Thơ văn của Bác giản dị giống như đời sống, trong tác phong, trong quan hệ với mọi người của Bác vậy
3. Kết bài:
– Thơ Bác chính là con người Bác: giản dị mà vĩ đại, sâu sắc, hào hùng.
– Dân tộc Việt Nam tự hào được sống và chiến đấu dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng, của Bác Hồ kính yêu.