biểu cảm ở đây là viết 1 bài văn biểu cảm về Tiếng gà trưa và Qua đèo ngang hả bạn
Bài thơ Tiếng gà trưa được viết vào thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Khi giặc Mỹ thua ở chiến trường miền Nam đã mở rộng phạm vi đánh chiếm ra miền Bắc. Trong hoàn cảnh đất nước bị đế quốc xâm lược như vậy hàng triệu thanh niên đã lên đường Trường Sơn đánh Mỹ. Bài thơ gợi về những kỉ niệm tuổi thơ đẹp về tình bà cháu và tình yêu quê hương đất nước.
Đó là nỗi nhớ nhà da diết, cháy bỏng của người cháu ở phương xa. Khi lên đường đi chiến đấu thì người lính nào cũng mong ngày đất nước giành được chiến thắng và trở về với quê nhà cùng những người thân yêu của mình. Và khi nghe tiếng gà kêu đối với người chiến sĩ thì đó là những hoài niệm đẹp về những kỉ niệm tuổi thơ. Tác giả nghe tiếng gà kêu như nghe thấy tiếng quê hương đang vẫy gọi mình và như thể tiếp thêm sức mạnh để vượt lên khó khăn gian khổ chiến đấu bảo vệ nước nhà.
Trên đường hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ
Cục…cục tác cục ta
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ
Như vậy chỉ qua đoạn thơ đầu ta đã thấy được nội dung của toàn bài thơ là những hoài niệm về tuổi thơ. Khi người chiến sĩ đi hành quân ngang qua một xóm nhỏ và nghe thấy tiếng gà kêu mà trong lòng dạy lên những kí ức. Đặc biệt câu “nghe bàn chân đỡ mỏi” lúc này người chiến sĩ như được tiếp thêm sức mạnh và quên đi cái mệt mỏi của lúc hành quân. Theo dòng hồi tưởng ấy những kí ức bắt đầu hiện về:
Tiếng gà trưa
Ổ rơm hồng những trứng
Nay con gà mái mơ
Khắp mình hoa đốm trắng
Nay con gà đốm vàng
Lông óng như màu nắng
Nhân vật trữ tình ở đây có một niềm sở thích đó là thích nâng niu ổ trứng hồng đang ấm thích những con gà mái mơ. Từ hình ảnh đàn gà và trứng gà thì hình ảnh người bà tần tảo bắt đầu hiện ra. Và đây cũng là mạch tiếp nối cảm xúc rất tự nhiên của bài gợi về những kí ức tuổi thơ và đặc biệt là hồi ức về gia đình.
Tiếng gà trưa
Có tiếng bà vẫn mắng
Gà đẻ sao mày nhìn
Rồi sau này lang mặt!
Sau tiếng gà trưa là hình ảnh người bà với tình yêu thương cháu vô bờ bến. Những kí ức ấy mãi in sâu vào tâm hồn của người chiến sĩ dù đi xa nhưng vẫn luôn nhớ về bà và những kỉ niệm tuổi thơ ở cùng với bà. Bà lo cho đàn gà cũng chỉ vì muốn có thêm tiền mua quần áo mới cho cháu. Như vậy bà có tình yêu thương cháu vô bờ.
Những câu thơ tuy ngắn gọn nhưng hết sức cô đọng và chứa chan biết bao nhiêu cảm lúc của người chiến sĩ. Đó không chỉ là niềm vui lúc nhỏ và khi lớn lên rồi ra chiến trường người chiến sĩ càng cảm nhận niềm vui ấy sâu sắc hơn về tình yêu thương mà bà giành cho mình. Từ đó người chiến sĩ như được tiếp thêm động lực để cố gắng chiến đấu thật tốt và để trở về quê hương cùng với bà.
Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi, cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ.
Như vậy ta thấy được những gì người chiến sĩ muốn gửi gắm đến quê hương đất nước và đến bà của mình. Đó là một tình cảm thiêng liêng dành cho quê hương đất nước và cho bà. Ổ trứng ở đây nói lên quy luật tình cảm vô cùng giản dị nhưng thấm đẫm trong lòng người đọc. Dù có đi đâu thì cũng phải luôn biết và tự hào về tình yêu gia đình, tình yêu quê hương.
Bài thơ Tiếng gà trưa là một bài thơ hay nói về những kỉ niệm của người chiến sĩ cách mạng. Đồng thời thể hiện tình yêu gia đình, quê hương đất nước rất da diết. Chất thơ dân gian mộc mạc, ngôn ngữ và hình ảnh gần gũi làm cho người đọc dễ cảm nhận được những tình cảm đẹp mà người chiến sĩ cách mạng lúc bấy giờ vì một tương lai đất nước tốt đẹp hơn.
Trong nền văn học Trung đại Việt Nam có lẽ sẽ chẳng ai quên được hai nữ nhà thơ tài năng: Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan. Nếu ở bà chúa thơ Nôm ta thấy nét bứt phá, hơi nổi loạn thì ta lại tìm thấy những xúc cảm trầm buồn nhẹ nhàng ở Bà Huyện Thanh Quan, tiêu biểu đó là bài "Qua đèo ngang".
Sáng tác trong một lần tác giả đi vào Huế để nhậm chức. Trên đường có đi qua địa danh này, nỗi lòng yêu nước nhớ quê hương, xót nước lại trào dâng làm cảm hứng để tác giả ngẫu hứng bật ra những vần thơ.
Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật với đầy đủ theo cấu trúc truyền thống của thể loại này, bao gồm: đề, thực, luận, kết. Qua đó đã diễn tả những nỗi niềm tâm tư của tác giả về đất nước. Đó là tuyệt thi thấm đượm nỗi buồn man mác, bâng khuâng, để lại trong lòng mỗi người không ít u sầu về lòng người cũng như thế sự đương thời bấy giờ:
Bước tới đèo Ngang bóng xế tàCỏ cây chen đá lá chen hoa
Vừa đặt chân đến chốn đây cũng là lúc mặt trời đổ bóng. Thời gian lúc này là "bóng xế tà " là khoảng thời gian kết thúc của một ngày. Xưa kia văn thơ trung đại người ta thường chỉ lấy buổi chiều làm hình ảnh trong thi phẩm chỉ khi lòng người mang đậm nỗi buồn. "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ", phải chăng là nỗi lòng bà huyện Thanh quan tài năng kia cũng mang một nỗi niềm về thế thời. Từ "chen" được điệp đến hai lần trong một câu thơ như tăng thêm chất hiu quạnh hơn. Nghệ thuật tiểu đối trong cùng một câu tạo nên nhịp thơ đăng đối hài hoà. Thêm đó lại càng làm bức tranh chiều tăng thâm phần hiu quạnh.
Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà
Dấu hiệu sự sống, con người đến hai câu thực đã dần xuất hiện. Hình ảnh "tiều vài chú, chợ, mấy nhà" đó là tất cả hơi thở cuộc sống nơi đây. Một lần nữa nghệ thuật tiểu đối trong các câu, giữa các câu đã phần nào tô thêm vào bức tranh con người nơi đây. Biện pháp tu từ đảo ngữ được tác giả sử dụng triệt thành công " Lom khom, lác đác". Đồng thời cũng là những từ láy nhằm chỉ sự hoạt động nhỏ nhặt nhấn mạnh vào sự cô quạnh nơi đây. Đồng thời lột tả về nhịp sống mong manh, thưa thớt mà tẻ nhạt thiếu sức sống.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốcThương nhà mỏi miệng cái da da
Dường như đến hai câu luận nỗi niềm tâm sự càng thêm trĩu nặng hơn. "Con quốc quốc" và "cái da da" tạo nên âm hưởng dìu dặt da diết cho âm điệu của câu thơ. Những cảm xúc, dòng suy nghĩ dần bộc lộ rõ hơn của tác giả. Là một nữ sĩ tài năng, tài tú không những thế bà còn là người mang nặng lòng với niềm mất nước trước bấy giờ. Thủ pháp lấy động tả tĩnh được khai thác đã khắc hoạ thêm cái u sầu của bài thơ. Nghe tiếng kêu rỉ máu của "cuốc cuốc" và cái "da da" mà lòng người thêm thê lương đau đáu về nỗi niềm thế sự. Thương cho thảm cảnh đất nước phân li, nước mất nhà tan lú bây giờ. Dường như để tránh, xoa dịu nỗi đau ấy tác giả đã sáng tạo thay vì "quốc quốc, gia gia" trong từ quốc gia thay bằng từ đồng âm. Nhưng nỗi niềm của bà huyện Thanh Quan vẫn khắc sâu ở đó, vẫn đau tâm khảm, vẫn nặng trĩu u sầu thậm chí thấm đượm trong cả cảnh vật.
Đến hai câu kết:
Dừng chân đứng lại trời non nướcMột mảnh tình riêng ta với ta
Non nước giờ đây hiện hữu trước mắt nhưng thay vì thấy sự hùng vĩ tráng lệ thì ta lại vẫn buồn vì những chữ " dừng chân đứng lại". Phải chăng cái dừng chân ấy có phải là cái dừng chân, cái dáng đứng bất lực trước thế thời của tác giả. Mảnh đất bao la của "quốc gia" mà lòng người thấy cô đơn lạc lõng biết bao, đứng trước cái mênh mông ấy nên bà chỉ cảm thấy " mảnh tình con con". Bởi thế mà cụm từ đầy sáng tạo "ta với ta" thêm khắc sâu nỗi buồn man mác trĩu nặng lòng người hơn.
Bài thơ "Qua đèo ngang" với tài năng nghệ thuật tác giả, kết hợp nhuần nhuyễn giữa các từ láy, các phép đối đã làm nên một thi phẩm để đời. Qua đó ta thấy thêm hiểu nỗi lòng của một thi nữ tài năng mà cũng đầy trân trọng và cảm thông với bà.
biểu cảm tiếng gà trưa là:
Xuân Quỳnh là một nhà thơ nữ xuất sắc trong nên thơ hiện đại của nước ta. Những áng thơ của Xuân Quỳnh luôn gần gũi, bình dị với đời sống thường ngày và biểu hiện khát vọng có cuộc sống tươi đẹp của người phụ nữ xinh đẹp. Một trong những tác phẩm đặc sắc của bà về tình cảm gia đình, sự giản dị của tình yêu thương gia đình là bài thơ “Tiếng gà trưa”. Bài thơ nói lên kỉ niệm đẹp đẽ của tác giả về tuổi thơ và về tình bà cháu, và bởi tình yêu đó đã khắc họa nên tình yêu quê hương đất nước.
biểu cảm bài đèo ngang:
"Qua đèo Ngang" là tác phẩm nổi tiếng nhất của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ được viết khi bà trên đường vào Phú Xuân, đi qua đèo Ngang - một địa danh nổi tiếng ở nước ta với phong cảnh hữu tình. Bằng giọng thơ man mác, hồn thơ tinh tế và lối thơ điêu luyện, "Qua đèo Ngang" không chỉ là bức tranh thiên niên đầy màu sắc mà còn bộc lộ tâm trạng cô đơn của tác giả, có chút gì đó nuối tiếc về thời phong kiến huy hoàng đã dần tàn lụi.
Bài thơ "Qua đèo Ngang" được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Mở đầu là hai câu đề:
Bước đến đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Chỉ với câu thơ đầu tiên tác giả đã khái quát lên toàn bộ về hoàn cảnh, không gian, thời gian khi viết bài thơ. Cách mở đầu rất tự nhiên, không hề gượng ép, tưởng như tác giả chỉ thuận chân "bước đến" rồi tức cảnh sinh tình trước khung cảnh đèo Ngang trong buổi chiều hoàng hôn "bóng xế tà". Hình ảnh "bóng xế tà" lấy ý từ thành ngữ "chiều ta bóng xế" gợi cho ta một nét gì đó buồn man mác, mênh mang, có chút nuối tiếc về một ngày đang sắp qua. Trong khung cảnh hoàng hôn đẹp mà buồn ấy, tác giả chú ý đến một vài hình ảnh độc đáo của đèo Ngang "Cỏ cây chen đá, lá chen hoa". Với việc nhân quá các loại cảnh vật qua động từ "chen" cùng với phép liệt kê hàng loạt cho ta thấy nét sống động trong bức tranh khung cảnh này. Cỏ cây cùng với đá núi, lá và hoa đua nhau vươn lên đầy sức sống. Những hình ảnh nhỏ bé nhưng sức sống thật mãnh liệt. Trong ánh chiều tà lụi tàn mà còn bắt gặp được những hình ảnh này để lại cho ta thật nhiều suy nghĩ.
Hai câu thực là khi tác giả đang ở trên đèo cao, phóng mắt nhìn về xung quanh, xa hơn những đá núi, cây cỏ để tìm đến bóng dáng con người:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Hình ảnh con người đã hiện ra nhưng dường như chỉ làm bức tranh thêm hiu hắt. Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ cùng với từ láy gợi tả để thể hiện lên điều này. Con người ở đây chỉ có "tiều vài chú" kết hợp với từ láy "lom khom" dưới núi. Cảnh vật thì "lác đác" "chợ mấy nhà". Tất cả quá nhỏ bé so với cảnh thiên nhiên hùng vĩ của đèo Ngang. Dường như không khí vắng vẻ, hiu quạnh bao trùm lên toàn cảnh vật.
Hai câu luận là nỗi buồn được khắc họa rõ nét qua những âm thanh thê lương:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Tiếng kêu thiết tha hay chính là tiếng lòng tác giả. "Nhớ nước đau lòng con quốc quốc" là câu thơ từ điển tích xưa về vua Thục mất nước hóa thành con cuốc chỉ biết kêu "cuốc cuốc". Tiếng cuốc kêu khắc khoải càng làm bóng chiều thêm tĩnh lặng. Còn tiếng "gia gia" là tiếng kêu tha thiết gợi nỗi "thương nhà". Ở đây cảm xúc của nhà thơ được bộc lộ rõ rệt. Nghệ thuật chơi chữ đồng âm độc đáo kết hợp nhân hóa cùng chuyển đổi cảm giác gây ấn tượng mạnh đã cho ta thấy được tấm lòng yêu nước thương nhà của Bà Huyện Thanh Quan.
Hai câu kết, khép lại những cảm xúc cũng như khung cảnh thiên nhiên của bài thơ:
Dừng chân đứng lại: Trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Cảnh vật đèo Ngang thật hùng vĩ khiến tác giả dừng chân không muốn rời. Cái bao la của đất trời, núi non, sông nước như níu chân người thi sĩ. Nhưng đứng trước không gian bao la hùng vĩ ấy, tác giả chợt nhận ra nỗi cô đơn trong lòng mình dần dâng lên "một mảnh tình riêng ta với ta". Khung cảnh thiên nhiên càng rộng lớn thì nỗi cô đơn của người lữ khách cũng càng đầy. Một mảnh tình riêng, một nỗi lòng sâu kín, những tâm sự đau đáu trong lòng mà không biết chia sẻ nhắn nhủ với ai. Âm hưởng nhịp điệu câu thơ như một tiếng thở dài nuối tiếc.
"Qua đèo Ngang" là lời nhắn gửi tâm sự của nỗi lòng tác giả đến người đọc. Bài thơ không chỉ là một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ đượm nét buồn mà còn là những tiếc nuối, một tấm lòng yêu nước thương dân. Phải thật giàu cảm xúc, thật yêu thiên nhiên cùng con người, Bà Huyện Thanh Quan mới có thể để lại những vần thơ tuyệt tác như vậy.