MB: Giới thiệu tác giả, tác phẩm
_ Nguyễn Quang Sáng:
Quê: An Giang.
Viết về cuộc sống và con người Nam Bộ.
Lối viết văn: giản dị, mộc mạc nhưng sâu sắc, đậm đà tính Nam Bộ.
Sáng tác nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch bản phim.
Tác phẩm tiểu biểu: Chiếc lược ngà, Đất lửa, Cánh đồng hoang, Mùa gió chướng.
_ Chiếc lược ngà:
Được viết năm 1966, khi tác giả đang hoạt động ở chiến trường Nam Bộ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
Được in trong tập truyện ngắn cùng tên.
TB:
- Tôi xa nhà đi kháng chiến, lúc đó, con tôi - bé Thu chưa đầy một tuổi.
- Mãi khi con gái lên tám tuổi, tôi mới có dịp về thăm nhà, thăm con.
- Bé Thu không nhận ra tôi vì vết thẹo bên má phải làm cho tôi không giống với người cha mà nó đã thấy trong ảnh.
- Con đối xử với tôi như người xa lạ, nhất định không chịu gọi tôi bằng ba.
- Đến lúc bé Thu nhận ra tôi, tình cha con thức dậy mãnh liệt trong con, thì cũng là lúc tôi phải trở về đơn vị.
- Ở khu căn cứ trong rừng, tôi ân hận vì đã đánh con, tôi dồn hết tình cảm vào việc làm một chiếc lược bằng ngà voi để tặng con.
- Nhưng trong một trận càn, tôi đã hy sinh.
- Trước lúc nhắm mắt, tôi đã kịp trao lại chiếc lược cho ông Ba, người bạn thân của tôi
Bạn nên chú ý các chi tiết này nhé:
Tâm trạng bé Thu trước khi nhận ra tôi là cha:
- Hốt hoảng, mặt tái đi, vụt chạy kêu thét lên.
- Chỉ gọi trống không, không chịu gọi tiếng “ba”.
- Hất cái trứng cá mà tôi gắp cho.
- Bỏ về nhà bà ngoại, cố ý khua dây cột xuồng kêu thật to.
Sợ hãi, lạnh nhạt, xa cách, ương ngạnh.
KB: Cảm nghĩ về câu chuyện
Bài làm: Bạn tham khảo !
Tình cảm của anh Sáu dành cho bé thu trở nên mãnh liệt hơn, cao cả, thiêng liêng và cảm động hơn bao giờ hết là việc anh tự tay làm chiếc lược nhà cho con gái. “Ba về! Ba mua cho con một cái lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối với người cha ấy, đó là mong ước đầu tiên và cũng là duy nhất cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng.
Kiếm cho con cây lược trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình phụ tử trong lòng. Anh bật dậy như bỗng loé lên một sáng kiến lớn: Làm lược cho con bằng ngà voi. Có lẽ không đơn thuần vì ở rừng rú chiến khu, anh không thể mua được cây lược nên làm lược từ ngà voi là một cách khắc phục khó khăn. Mà cao hơn thế, sâu hơn thế, ngà voi là thứ quí hiếm – chiếc lược cho con của anh phải được làm bằng thứ quý giá ấy. Và anh không muốn mua, mà muốn tự tay mình làm ra. Anh sẽ đặt và trong đấy tất cả tình cha con của mình. Kiếm được ngà voi, mặt anh “hớn hở như một đứa trẻ được quà”.
Vậy đấy, khi người ta hoá thành con trẻ lại chính là lúc người ta đang hiện lên cái tư cách người cha cao quý của mình. Rồi anh “ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng tỉ mỉ và khổ công như người thợ bạc”, “gò lưng tẩn mẩn khắc từng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Anh thường xuyên “lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng thêm mượt”.
Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân – nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời cho nên chiếc lược ngà đã kết tinh trong nó tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm sâu xa, đơn sơ mà kỳ diệu làm sao! Nhưng ngày ấy đã vĩnh viễn không bao giờ đến nữa. Anh không kịp đưa chiếc lược ngà đến tận tay cho con thì người cha ấy đã hi sinh trong một trận đánh lớn của giặc. Nhưng “hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”. Không còn đủ sức trăn trối điều gì, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho anh làm được một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu thân thiết và cứ nhìn bạn hồi lâu. Nhưng đó là điều trăn trối không lời, nó rõ ràng là thiêng liêng hơn cả một lời di chúc, bởi đó là sự uỷ thác, là ước nguyện cuối cùng của người bạn thân, ước nguyện của tình phụ tử! Bắt đầu từ giây phút ấy, chiếc lược ngà của tình phụ tử đã biến người đồng đội thành một người cha – người cha thứ hai của cô bé Thu.
Các bạn ạ! Trong những ngày đen tối ấy, người sống phải sống bí mật cũng đã đành một lẽ còn người chết cũng phải chết bí mật nữa. Mộ của anh không thể đắp cao lên được, vì tìm thấy mồ mả bọn chúng sẽ đào lên và tìm ra dấu vết, cho nên ngôi mộ của anh là ngôi mộ bằng, bằng phẳng như mặt rừng vậy. Bác Ba bạn của anh đã lấy dao khắc vào một gốc cây rừng cạnh chỗ anh nằm làm dấu cho dễ nhớ. Sống như thế và chết như thế hỏi vậy làm sao mà chịu được. Chúng ta buộc phải cầm súng. Và bé Thu không còn là cô bé ngày xưa nữa mà là một cô giao liên thông minh, quả cảm. Thu đi theo con đường mà ba cô đã chọn. Thu đi để trả thù cho quê hương, cho cha mình đã bị bọn giặc giết hại. Tuy anh Sáu đã hi sinh nhưng câu chuyện vè hai cha con anh sẽ còn sống mãi.
Hình ảnh chiếc lược ngà với dòng chữ sẽ mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, bi kịch của chiến tranh. Cảm ơn nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã khắc hoạ rõ nét tâm hồn, tình cảm của anh Sáu và bé Thu. Truyện dẫn người đọc dõi theo số phận và lòng quả cảm, dõi theo tâm tình của cha con một người chiến sĩ diễn ra hàng chục năm trời đi qua hai cuộc chiến tranh. Người còn, người mất nhưng kỉ vật, gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại của chiếc lược ngà vẫn còn đây. Đây là minh chứng đối với chúng ta “cái mất mát lớn nhất mà thiên truyện ngắn đề cập đến là người đã khuất, là tổ ấm gia đình không còn tồn tại trọn vẹn trong thực tại. Đó là tội ác, là những đau thương, mất mát của chiến tranh xâm lược mà các thế hệ bạo tàn gây ra cho chúng ta. Song cái được mà chúng ta nhìn thấy là không có sự bi lụy xảy ra, sức mạnh của lòng căm thù đã biến cô bé Thu trở thành một người chiến sĩ thông minh, dũng cảm, đã gắn bó cuộc đời con người có ít nhiều mất mát xich lại gần nhau để cùng đứng lên viết tiếp bản ca chiến thắng.
Gấp sách lại, chia tay với ông Ba, câu chuyện về “Chiếc lược ngà” với lời nói cuối cùng của ông – giọng trầm ấm khoan thai – cứ âm vang mãi trong bạn đọc chúng ta, như sự âm vang của một truyện cổ tích. Truyện cổ tích hiện đại đó đã thành công trong việc tạo tình huống truyện, miêu tả tâm lý, tình cảm nhân vật và giọng kể nhẹ nhàng, thấm thía truyền cảm. Ông Ba – người kể chuyện – hay chính là nhà văn Nguyễn Quang Sáng? Phải là người từng trải sống hết mình vì công cuộc kháng chiến của quê hương, gắn bó máu thịt với những con người quê hương giàu tình nghĩa, rất nhân hậu mà kiên cường, bất khuất, bất diệt, nhà văn mới nhập được vào các nhân vật, sáng tạo được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động, bất ngờ, có được giọng văn dung dị và cảm động như vậy. Đồng thời truyện đã làm sống lại quãng thời gian giữ nước để thông qua đó tác giả muốn người đọc phải suy nghĩ và thấm thía nỗi đau, sự mất mát mà chiến tranh mang đến.
Tình cảm cha con sâu sắc của cha con ông Sáu đã vượt qua bom đạn của chiến tranh để ngày càng thiêng liêng, ngời sáng và gắn bó chặt chẽ với tình yêu quê hương, đất nước. Qua cuộc đời nhân vật, từ cô bé Thu đến ông Sáu, ông Ba, Nguyễn Quang Sáng như muốn nói rằng trong cuộc kháng chiến gian khổ chống ngoại xâm vừa qua của dân tộc ta, tình nghĩa con người Việt Nam, nhất là tình cha con, đồng đội, sự gắn bó thế hệ già với thế hệ trẻ, người chết và người sống… mãi mãi bất diệt. Như chiếc lược ngà ba tặng lại không bao giờ có thể mất, tình cha con của bé Thu cũng sẽ mãi mãi bất diệt!.
Bài làm 2:
Đối với tôi hạnh phúc lớn nhất cả cuộc đời này là có được bé Thu- đứa con gái đầu lòng của tôi. Dù đã xa con gần tám năm nhưng không ngày nào là tôi không nghĩ đến cái ngày gia đình được đoàn tụ. Và cuối cùng cơ hội cũng đã đến với tôi khi tôi được về phép trong ba ngày lòng tôi vui sướng khôn tả nghĩ đến cái cảnh đứa con gái yêu quí của mình chạy lại ôm tôi vào lòng và được nó gọi một tiếng ba thì hạnh phúc biết bao.
Nhưng tất cả mọi thứ đều trái ngược với cái mơ ước nhỏ nhoi ấy, đứa con gái mà tôi hằng mong nhớ lại xem tôi như một người xa lạ, xem người cha ruột này như một người dưng qua đường không hề quen biết vì trên má tôi có một vết thẹo dài không giống với người trong ảnh chụp cùng với má nó.
Ờ thì, có lẽ nó cư xử như vậy là đúng thật vì khi mà tôi lên đường đi chiến đấu khi nó chưa tròn 1 tuổi nữa mà, còn quá nhỏ để ghi khắc hình ảnh của người cha này và cũng chưa đủ lớn để nhận biết được sự tàn khốc của chiến tranh mang lại nên lúc nào đối với tôi nó cũng nói trổng, mặc cho tôi có làm gì, có nói ra sau thì mọi thứ đều như công dã tràng.
Đóng vai ông Sáu kể lại chuyện Chiếc lược ngà
Chủ đề: Văn kể chuyện Tweet TIN HAY by Mỡ ở bụng và hai bên hông sẽ biến mất chỉ trong 3 ngày! Hội con nhà giàu tiết lộ cách họ kiếm tiền ở Sài Gòn Bạn cũng có thể trở thành Triệu phú chỉ trong một năm với Bitcoin Tóm tắt văn bản và nêu cảm nghĩ về nhân vật ông Sáu trong truyện chiếc lược ngà – Bài số 1"Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn cảm động viết về đề tài tình phụ tử. Nhân vật ông Sáu trong tác phẩm – một người lính yêu nước, dũng cảm, một người cha yêu thương con hết mực – đã để lại trong lòng ngượi đọc niềm xúc động sâu sắc.
Hãy kể lại một câu chuyện mà em thích nhất Đóng vai Cám kể lại chuyện Tấm Cám Nhập vai Tấm kể lại câu chuyện Tấm Cám“Chiếc lược ngà” được viết trong những năm tháng mà miền Nam ruột thịt đang oằn mình trong cuộc chiến tranh chông Mĩ – nảm 1966. Những tác phẩm viết về đề tài tình cảm gia đình thời kì này không khiến lòng người mềm yếu đi mà ngược lại, nó tiếp thêm sức mạnh để mỗi đồng bào miền Nam cầm chắc hơn cây súng, vững hơn cây gậy để đánh đuổi giặc Mĩ vì những người thân yêu của mình. “Chiếc lược ngà” với ý nghĩa nhân văn đẹp đẽ cũng được đời sống văn học của nhân dân đón nhận nồng nhiệt.
Tác phẩm viết về tình cha con của ông Sáu và bé Thu. Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến đã lâu. Vì lửa đạn ác liệt, vợ ông đi thăm chồng không mang được con theo, ông chỉ được nhìn con qua những bức ảnh. Mãi đến khi con gái lên tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Vừa về nơi, ông đã nhận ra con và sung sướng gọi nó. Bé Thu không nhận ba vì sẹo trên mặt làm ông Sáu khồng còn giống với người trong bức ảnh chụp mà em đã biết. Em đã đối xử với cha như người xa lạ. Ông Sáu vô cùng buồn rầu, đau khố tìm mọi cách săn sóc con mà không được. Đến lúc Thu nhận ra ba, tình ba con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. ơ khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương đứa con vào việc iàm chiếc lược bằng ngà voi để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn, ông hi sinh. Trước lúc nhắm mắt ông còn kịp trao cây lược cho người bạn. Thu lớn lên trờ thành một cô giao liên dũng cảm và xinh đẹp. Trong một chuyến công tác, người bạn năm xưa của ông Sáu đã gặp được Thu và trao cho cô chiếc lược ngà.
Xuyên suốt câu chuyện, ông Sáu hiện lên là một người chiến sĩ yêu nước, dũng cảm và đồng thời là một người cha yêu con tha thiết. Điều đó khiến người đọc vô cùng trân trọng và yêu mến.
Khi tham gia kháng chiến, vì sự nghiệp chung của Tổ quốc, ông Sáu đã chấp nhận hi sinh những tình cảm riêng. Để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng, dù nhớ gia đình, nhớ con cháy bỏng, ông vẫn giữ vững kỉ luật bảy tám năm không về. Khi về phép, hết ba ngày hạn, khi ấy ông đã khao khát nán lại biết bao dù chỉ một chút thôi để tận hưởng tình cảm cha con mà ông vừa mới nhận được sau bao đợi chờ, mong mỏi. Nhưng chấp hành nhiệm vụ, ông vẫn gạt đi niềm riêng để chia tay con gái. Trong những năm tháng ở chiến trường, ồng đã chiến đấu dũng cảm và rồi hi sinh anh dũng.
Lòng yêu nước của ông Sáu cũng như bao người chiến sĩ khác trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Hàng ngàn hàng triệu người con đất Việt đã bước vào chiến trường gạt đi những niềm riêng. Chiển trường vẫy gọi, Tổ quốc đang cần, họ sẵn sàng lên đường vì những cuộc đời chung trong tương lai. Đó là những cống hiến, những hi sinh vô cùng cao thượng.
Ở ông Sáu còn có một điều vô cùng đáng quý khác là tình yêu thương con tha thiết. Suốt những năm tháng ở chiến trường, ông đã ấp ủ hình bóng của con. Có lẽ ông đã tưởng tượng từng ngày từng giờ về sự lớn lên của nó. Bởi thế, về đến nhà, không cần hỏi thăm ông đã nhận ra con mình. Tình cha con nôn nao, không chờ xuồng cập bến, ông nhảy lên bước vội những bước dài, miệng lập bập:
Thu con!
Trái tim ông có lẽ đang run rẩy. Ông đang chờ đợi giây phút con bé lao vào lòng mình mà ôm mà hôn miệng la lên “Ba! Ba!” sung sướng… Nhưng bất hạnh thay, Thu lại sợ hãi chạy đi miệng la “Má! Má!”. Ông đứng sững lại đầy sững sờ, thảng thốt.
Trong những ngày nghi phép, ông buồn rầu chỉ nghĩ cách gần con. Đáng thương thay cho người cha ấy. Ngày phải đi càng ngày càng gần lại mà niềm riêng trăn trở của ông vẫn chưa thỏa lòng. Ông chắc hẳn đã nghĩ đến những ngày phép ngắn ngủi mà lo lắng lắm. Vậy nên, ông tranh thủ từng giây từng phút để mà săn sóc cho nó. Khi thì chờ nó gọi “ba” nhờ ông chắt nước, khi thì chờ nó gọi “Ba vô ăn cơm”, lúc lại lựa cho nó miếng trứng cá ngon vàng nhất đĩa… Nhưng mọi việc đều vô ích. Nỗi lo lắng về thời gian nghỉ phép cộng với nỗi đau vì tình thương không được đáp trả đã khiến ông trót đánh con một cái: “Sao mày ương quá vậy!”. Chính cái đánh ấy đã khiến ông ân hận biết bao. Nỗi ân hận đã theo ông cả vào chiến trường sau đó.
Ngày ra đi, ông Sáu rất muốn ôm hôn con tạm biệt. Nhưng lo con bỏ chạy như lần trước, người cha tội nghiệp chỉ dám đứng từ xa mà nhắn nhủ: “Ba đi nghe con”. Nhưng chính lúc ấy, bé Thu lao đến ôm chầm lấy ông: “Ba! Ba!”, "Con không cho ba đi”. Tiếng gọi ấy như cơn mưa mát lành trải xuống cánh rừng khô hạn. Ông Sáu đã vui sướng biết nhường nào. Chắc hẳn, ông đã muốn nán lại để ôm hôn con cho thỏa nhưng vì nhiệm vụ ông phải ra đi.
NHIỀU NGƯỜI ĐỌC by Hội con nhà giàu tiết lộ cách họ kiếm tiền ở Sài Gòn Mỡ ở bụng và hai bên hông sẽ biến mất chỉ trong 3 ngày! Một cốc vào buổi sáng = 19 cân trong 2 tuần! Bệnh vẩy nến biến mất trong vòng 2 ngày. Bí quyết dứt điểm hôi miệng chỉ với 2 phút mỗi ngày. Đọc ngay Bạn cũng có thể trở thành Triệu phú chỉ trong một năm với BitcoinỞ khu căn cứ, ông Sáu dồn cả tình yêu thương và nhung nhớ đứa con vào việc làm cây lược ngà để tặng con. Trong khi làm, ông cảm thấy vui vui như đứa trẻ nhận được quà. Ông cố gắng làm tỉ mỉ, thận trọng cố công như người thợ bạc. Khi chiếc lược được làm xong ông cảm thấy sung sướng vì mình như đã thực hiện được phần nào lời hứa. Sau đó ông lại khắc trên sống lưng chiếc lược "Yêu nhớ tặng con -Thu của ba". Hàng đêm nhớ con ông lại đem lược ra ngắm chải lên đầu cho lược thêm bóng, them mượt… Chiếc lược ngà đã trở thành kỉ vật quý giá, thiêng liêng với ông Sáu, nó làm dịu nỗi ân hận chứa đựng tình cảm yêu mến nhớ thương của người cha với đứa con xa cách. Tình yêu con của ông Sáu không phải được đếm theo ngày, theo giờ mà là theo phút, theo giây. Trong giờ phút cuối cùng, tuy không đủ sức trăng trối, nhưng tình cha con vẫn sống và trỗi dậy trong con người ông. Hành động trao lại cây lược cho người đồng đội, ông Sáu như muốn nhắn nhủ: “Hãy giúp tôi trao lại cây lược cho con gái”. Tình cha nơi ông khi ấy cảm động và thiêng liêng làm sao!
Chiếc lược ngà đã trở thành biểu tượng của tình cha cảm động. Có phải vì vậy mà Nguyễn Quang Sáng đã lấy tên kỉ vật ấy đặt tên cho tác phẩm của mình?
“Chiếc lược ngà” có một cốt truyện hấp dẫn, xoay quanh tình huống bất ngờ nhưng tự nhiên hợp lí. Nghệ thuật kể chuyện, dẫn chuyện thường thoải mái tự nhiên, giọng kể chuyện thận mật, dân dã. Ngôn ngữ nhà văn sử dụng mang đậm mà sắc Nam Bộ… Những điều đó đã góp phần không nhỏ vào việc xây dựng nhân vật và thể hiện chủ đề tác phẩm.
Nhân vật ông Sáu trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng để lại trong lòng người đọc niềm cảm động về một người chiến sĩ – một người cha đẹp đẽ. Hình ảnh nhân vật gợi cho người đọc nhớ đến tình cảm của những người thân yêu trong gia đình để ta biết yêu, biết trân trọng hơn hạnh phúc thiêng liêng mà mình đang có được.
Phân tích nhân vật ông Sáu – Bài số 2Ông Sáu là một trong hai nhân vật chính trong tác phẩn "Chiếc lược ngà" của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.Ông có một cuộc sống bình thường như bao người dân bình thường khác sống trong thời kì lúc bấy giờ : cuộc sống bị chi phối bởi chiến tranh. Nhưng ở ông vẫn toát lên lòng yêu nước; lòng yêu thương vợ con, gia đình.Có lẽ bởi vậy mà ông Sáu đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng cũng như tình cảm sâu sắc. Như đã nói trên, ông Sáu là một trong hai nhân vật chính của tác phẩm. Nhân vật này được tác giả xây dựng một cách khá công phu để qua đó xây dưụng chủ đề của tác phẩm : những đau thương và tình người trong chiến tranh.
Ông Sáu đã trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, đó là những ngày tháng không thể nào quên của ông Sáu cũng như của toàn nhân dân Việt Nam.Vì lòng yêu nước và vì độc lập của dân tộc mà ông Sáu đã ra đi để lại người vợ trẻ và đứa con nhỏ còn chưa biết gọi ba. Đó là vẻ đẹp của một người yêu nước, của người chiến sĩ cách mạng.Trong ông luôn thường trực nỗi nhớ nhà , nhớ con da diết.Với ba ngày phép, ông đã hi vọng được nghe tiếng ba từ đứa con gái bé bỏng của mình. Nhưng ông lại không đạt được mong ước nhỏ nhoi ấy. Tình cha con của ông với bé Thu bị chia cắt. Tại sao ư? Đó là bởi vết sẹo dài trên mặt ông. Vết sẹo ấy là hậu quả mà chiến tranh đã để lại trên khuôn mặt ông. Nỗi khát khao. tình cha con của ông không được trọn vẹn. Đó phải chăng là một tội ác nữa của chiến tranh : chia cắt tình cảm cha con. Và rồi đến khi bé Thu nhận ông rồi, ông lại phải lên đường ngay. Lí do ở đây lại là chiến tranh. Chiến tranh, chiến tranh, chiến tranh. Sao cuộc đời và số phận của ông Sáu lại đều do chiến tranh chi phối như vậy. Thật quá phi nghĩa. Chiến tranh- nó chỷ mang lại cho con người đau khổ mà thôi. Mà đâu chỉông Sáu mới phải chịu sự chi phối của chiến tranh, cuộc đời ông còn giống với rất rất nhiều những người dân Việt Nam khác nữa. Điều đó làm cho ta cảm thấy đau xót thay cho những cảnh đừoi bất hạnh trong chiến tranh và làm ta nhận ra sự phi nghĩa, sự phi nghĩacủa chiến tranh.
Ông Sáu là một tình yêu nước tha thiết.Ông đã gạt bỏ tình riêng của mình để lên đường cứu quốc. Có được mấy người cha bỏ lại đứa con nhỏ của mình để lên đường tìm lại độc lập tự do dân tộc?Có được mấy người cha khi vừa mới được đứa con yêu quý của mình nhận làm ba đã lên đường ra mặt trận ngay ?Không phải là ông sợ nếu như ở lại lâu hơn sẽ bị phạt mà bởi ông lo nếu như cóviệc gấp ở mặt trận mà lại không có mặt thìkhông thể hiến sức mình để bảo vệ cho Tổ quốc được. Ông yêu nước. Điều đó không ai có thể phủ nhận đươc. Và chính điều đó đã làm cho người đọc cảm thấy khâm phục nơi con người ông vì ông đã quên đi cái tình riêng để cống hiến cho cái lớn lao hơn, cho cái tính yêu chung của cả dân tộc.
Có lẽ rằng nổi bật nhất nơi con người ông không chỉlà tình yêu nước mà cònlà tình yêu gia đình, đặc biệt là đứa con gái bé bỏng của ông. Khi được nghỉ phép về thăm nhà, ông đã không thể chờ đến khi ghe cập bến mà đã nhảy phắt lên bờ gọi con. Điều này cũng là lẽ tất nhiên thôi. Ông đã xa con gái, xa gia đình trong tám năm trời ròng rã. Tám năm là khoảng thời gian quá dài để kìm nén trong lòng một nỗi nhớ. Và rồi cuối cùng nỗi nhớ ấy cũng được bộc lộ. Ông chạy đến bên con, gọi con bằng tất cả tấmlòng mình. Nhưng, nhưng và nhưng tình cảm nỗi nhớ của ông như rơi xuống vực thẳm. Bé Thu sợ hãi và chạy vào nhà khi vừa thấy ông. Chắc chắn rằng trong ông lúc đó là sự đau khổ đến tột cùng. Ông yêu con lắm nhưng nó có biết không. Nó đã bỏ ông lại với sự cô đơn mà ông không thể ngờ tới. Trong ba ngày phép ông đã cố gắng rất nhiều để được nghe một tiếng ba từ bé Thu. Nhưng những gì ông mong đợi dường như đều trở nên vô vong. Bé Thu cứng đầu, dứt khoát không chịu gọi ông là ba. Trong ông Sáu là sự thất vọng vô cùng.Và rồi đến tận ngày ông đi, bé Thu vẫn cứ khép mình ở một góc nhà, không chịu tạm biệt ba – con người mà đi rồi có lẽ sẽ không trở về. Và rồi đến khi ông Sáu mở lời trước, tạm biệt bé Thu trước, điều bất ngờ đã xảy ra. Thu ôm chầm lấy ba mà gọi tiếng ba. Tiếng " ba" đã dồn nén từ tám năm nay.
Mọi người chứng kiến câu chuyện đều xúc động trước tình cảnh đáng thương của hai cha con. Có lẽ sự xúc động ấy truyền cả sang cho người đọc. Người đọc xúc động bởi vì cuối cùng ông Sáu cũng đã được nghe thấy tiếng ba mà ông hằng mong mỏi, xúc động vì tình phụ tử của hai cha con ông thật quá đẹp đẽ và thiêng liêng.Nhưng rồi đến lúc được con nhận, ông lại phải rời khỏi nhà ngày. Ông đã hứa với Thu rằng sẽ làm cho cô bé một chiếc lược ngà. Ông yêu con mình lắm, ông không muốn xa nó đâu nhưng vì tiếng gọi của tổ quốc, ông lại phải xa con lần thứ hai. Ở ngoài chiến khu, ông vẫn nuôi trong mình nỗi yêu và nhớ con da diết. Ông ngồi làm chiếc lược cho con gái một cách đầy tỉ mỉ . Cái tỉ mỉ ấy có lẽ cũng gióng với cái tình yêu thương da diết ông dành cho con. Rồi đến khi làm xong chiếc lược, cứ mỗi lần rảnh rỗi là ông lại lâấ ra mà ngắ mà nghía cho thỏa nỗi lòng nhớ con da diết.Dù trong bất kể hoàn cảnh nào cuũn vậy thôi, ông luôn dành cho bé Thu tất cả những tình cảm thiêng liêng, đáng trân trọng nhất. Điều đó khiến cho ta thêm yêu quý con người này với vai trò là một người cha, cũng như xúc động trước những tình cảm mà ông dành cho con gái mình.
Cuối cùng, một điều mà ít ai để ý thấy ở ông Saú. Đó là ông luôn vững lòng tin về chiến thắng của toàn dân tộc. Ông giao lại chiếc lược ngà cho ông Ba – người bạn đã cùng với ông về thăm nhà khi xưa- và mong ông Ba sẽ giao tận tay cho con gái mình chiếc lược ngà mà ông luôn giữ gìn cẩn thận. Ông Sáu chắc chắc rằng rồi một ngày đất nước sẽ hoàn toàn được độc lập và ông Ba sẽ gặp được bé Thu ngày nào và chiếc lược ngà sẽ được giao cho đúng chủ nhân của nó. Điều này cho ta thấy yêu mến con người này, con người tin vào dân tộc và cũng cảm thấy tiếc thương vô hạn cho một con người có tâm hồn đẹp đẽ như vậy mà phải hy sinh trên chiến trường gian khổ.
Có lẽ nhânvật để lại được những ấn tợng sâu sắc trong lòng người đọc là do cái nghệ thuật xây dựng nhânvật tài tình của tác giả Nguyễn Quang Sáng.Nhânvật dã được tác giả xây dựng qua những tình huống dặc sắc, những tình huống đã làm cho nhân vật tự bộc lộ mình.Tác giả còn miêu tả nhân vật qua những tâm lí sâu sắc và cũng thật chân thực.Những tâm lí ấy , tác giả xây dựng được chân thực như vậy là bởi vốn sống phong phú của tác giả, vốn sống đã đem lại thành công cho tác phẩm này.
Ông Sáu với cuộc đời bị chi phối bởi chiến tranh và tình cảnh éo le ấy đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu đậm. Qua đó người đọc cũng hiểu thêm về những người đi trước cũng như thêm khaâ phục, kính trọng, tự hào về họ – những con người đã cống hiến hết mình vì tổ quốc Việt Nam yêu dấu.
Thay lời bé Thu kể lại chuyện chiếc lược ngà – Bài số 3Cứ mỗi lần cầm cây lược trong tay, tôi lại bần thần nhớ đến người cha kính yêu của mình. Đã năm mươi năm trôi qua, kể từ ngày lần đầu tiên tôi được gặp ba. Thời gian sao mà trôi nhanh, bất giác bao kỉ niệm của thời thơ ấu như hiện về trong tôi.
Ngày ấy, cái xóm ấp nhỏ lúc nào cũng rộn rã tiếng cười đùa, hò reo của lũ trẻ con chúng tôi. Người lớn đều đi chiến đấu hay đi làm đồng. Xóm có năm đứa nhưng mỗi đứa một tuổi, tôi là đứa lớn nhất khi đó mới lên tám, người ta thường gọi tôi là út nhỏ nhà ông Sáu. Cha tôi luôn là niềm tự hào để tôi khoe với lũ trẻ vì ba là bộ đội giải phóng. Dù chưa một lần được gặp nhưng qua các tấm hình của má cho xem, trong ấn tượng của tôi ba hiện lên thật oai phong, ba là một vị anh hùng.
Ngày thứ nhất bên ba
Trong suốt cuộc đời mình, có lẽ không bao giờ tôi quên được buổi chiều đáng nhớ ấy. Cũng như các buổi chiều khác, lũ trẻ chúng tôi lại tụ tập chơi nhà chòi. Bỗng có tiếng gọi to:'' Thu! Con”. Tôi giật mình, quay lại. Trước mắt tôi là một người đàn ông xa lạ mặc bộ quân phục đã bạc màu, trên khuôn mặt có vết thẹo dài, đỏ ửng trong dữ tợn và rất sợ. Tôi chưa kịp định thần thì người đó đưa hai tay về phía trước, tiến về phía tôi chầm chậm và nói giọng run run:
– Ba đây con!
Lần này, tai tôi không nghe nhầm, đúng là người đó xưng “ba” với tôi mà, còn nhắc lại lần nữa. Tai tôi ù đi, đầu óc tối sầm lại, trong đầu cứ vang vang câu hỏi: Tại sao? Tại sao? Người này đâu giống ba tôi? Ông ta mỗi lúc càng tiến lại gần. Lo sợ, tôi chạy thật nhanh và kêu lên:'' Má! Má!”.
Trái với dự đoán của tôi, khi nhìn thấy ông ấy má tôi không đuổi đánh mà lại khóc, đỡ ba lô cho ông ta và nói:
– Bố nó đã về đấy ư?
Tôi nép vào đằng sau má. Trong đầu hiện lên biết bao câu hỏi: Tại sao đó lại là ba mình? Không thể nào? Ba mình mà dữ tợn thế ư? Ba hiền hậu và oai phong lắm mà?”. Nghĩ vậy nên dù má nói thế nào tôi vẫn không thể tin nổi đó là ba mình và kiên quyết không nhận. Những ngày tiếp theo thực sự là những ngày đấu tranh ngầm nhưng quyết liệt giữa tôi và người đàn ông mà tôi cho là xa lạ đó. Thật kì lạ, ông ấy suốt ngày chẳng đi đâu xa, chỉ quanh quẩn ở gần tôi, vỗ về, nựng tôi. Thấy vậy, tôi lại càng ghét ông ta hơn. Má tôi cứ như không hiểu lòng tôi, gọi ông ta là ba, cho nên, đến bữa ăn, má không gọi mà sai tôi:
– Thu ra gọi ba vào ăn cơm đi con!
“Gọi ba vào ăn cơm ư? Không đời nào!” – tôi thầm nghĩ và cãi lại má:
– Thì má cứ kêu đi.
Má liền nổi giận cầm đũa bếp dọa đánh tôi. Tôi đành phải gọi những vẫn giữ nguyên lập trường, tôi nói trổng:
– Vô ăn cơm!
Tôi nói như hét mà ông ấy cứ ngồi im như người điếc vậy. Thấy thế, tôi tức lắm nhưng sợ má nên vẫn kêu lần nữa:
– Cơm chín rồi!
Lần này, ông ta quay lại nhìn tôi vừa khe khẽ lắc đầu, vừa cười. Bữa cơm hôm đó rồi cũng trôi đi, tôi cứ ngồi im ăn, mặc cho má và người đó nói chuyện. Người đàn ông có vết thẹo dài vẫn luôn chăm chú nhìn tôi, đôi lúc bất giác nhìn lên bắt gặp ánh mắt ông ta đang nhìn tôi lại thấy rất lạ. Thực ra, nếu nhìn kĩ ông ấy cũng không quá dữ tợ. Tuy vậy, ông ấy cũng không giống ba trong ảnh chút nào.
Ngày thứ hai với người đàn ông xa lạ…
Dù đã sang đến ngày thứ hai nhưng người đàn ông kia vẫn chẳng đi đâu khỏi nhà. Tôi làm gì đi đâu ông ấy cũng dõi theo khiến tôi càng cảm thấy khó chịu hơn. Má vẫn khẳng định đó là ba Sáu và mắng tôi ngang bướng. Đúng là tôi ngang bướng bởi đó rõ rang không phải ba Sáu. Đến trưa, khi đang nấu cơm má phải chạy ra chợ mua thức ăn, tôi đòi đi theo, má nhất định không cho. Thế là tôi đành ở nhà chơi với người đàn ông đó. Tôi không ra ngoài mà ngồi trong bếp lúi cúi với cái nồi cơm. Đang suy nghĩ miên man, nhìn ngọn lửa bập bùng thì tiếng xèo xèo vang lên. Nồi cơ đã sôi rồi, phải chắt nước, làm thế nào bây giờ? Nồi to quá,tôi không thể nào nhấc xuống. Tôi quay lại thì nhìn thấy ông ấy đã đứng cạnh tôi từ lúc nào. Tôi đưa ánh mắt nhìn ông ta cầu cứu và kêu lên:
– Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái!
Tôi thực sự bối rối, hoang mang. Nếu không chắt nước thì cơm sẽ nhão, má về la, đánh mất. Tôi tiếp tục kêu cứu:
– Cơm sôi rồi,nhão bây giờ!
Nhưng sao tôi cầu cứu rồi mà ông ta chẳng hề động lòng vậy? Có phải vì tôi không kêu ông ta bằng ba? Không…không…nhất định không thể gọi ba được, cái Thu đâu phải đứa bị dễ khuất phục thế! Sau một hồi lúng túng, bỗng một ý nghĩ lóe lên trong đầu tôi: “Đúng? Không bắc nồi ra được thì mình sẽ lấy cái vá múc ra từng vá nước vậy.Thật là sang suốt. Tôi làm luôn, nhưng trong lòng vẫn tức giận, tôi nguyền rủa ông ta. Tại sao ông ta thấy thế mà không giúp đỡ chứ? Ông ấy thật nhẫn tâm!
Bữa cơm ngày thứ hai có thể cũng trôi qua như hôm trước nếu…
Khi đó, tôi ngồi cho ăn xong bữa cơm. Đang ăn bỗng ông ta gắp vào bát tôi một miếng trứng cá vàng to. Lúc đó, trong lòng tôi thực sự là có những xao động vì ngoài má ra,đây là lần đầu tiên tôi được người lớn tổi như ba mình gắp thức ăn cho. Tôi nhìn chén cơm suy nghĩ, bất thần cầm cái đũa gẩy mạnh hất miếng trứng ra khỏi bát khiến cơm bắn tung tóe khắp mâm. Bỗng mông tôi đau rát!
– Sao mày cứng đầu quá vậy,hả?
Có lẽ ông ấy đã quá giận dữ. Tôi lặng im, không nói không rằng. Đây là lần đầu tiên tôi bị đánh đau như thế, má dù đánh cũng chỉ đánh nhẹ mà thôi! Tôi muốn khóc thật to nhưng tự nhủ trước mặt ông ta không được yếu đuối. Tôi nhặt trứng vào bát rồi bước ra khỏi nhà, tôi phải sang nhà ngoại để méc với ngoại. Vừa nhìn thấy ngoại, tôi tủi thân, chạy đến ôm chầm lấy tấm thân gầy gò của ngoại mà khóc tức tưởi cho thỏa nỗi lòng. Ngoại yêu và chiều tôi nhất nhà nên có gì tôi cũng chạy đến tâm sự với ngoại. Chiều đến, má qua đón tôi về nhưng tôi nhất định không chịu, tôi không muốn nhìn thấy người đàn ông dữ tợn đó nữa. Tôi nhất quyết ngủ với ngoại.
Đêm đến…Tiếng ếch nhái ngoài con kênh trước nhà kêu ì ộp, tôi nằm mãi mà không sao ngủ được, đến lúc này tôi thực sự hoang mang. Người đàn ông đó rốt cuộc là ai? Sao lại cứ bắt tôi gọi bằng ba? Sao lại giận và đánh tôi. Ngoại như đoán biết được tâm trạng cô cháu gái nhỏ, ngoại nói:
– Thu à? Tại sao con không nhận ba con? Người đó là ba Sáu của con mà!
– Không ngoại ơi! Ba Sáu con không giống ông ta! – Tôi trả lời.
– Sao con lại bảo không giống với ba Sáu? Có phải là ba đi chiến đấu lâu nên nhìn già hơn không?
Để chứng minh với ngoại, tôi liền nói:
– Vì ba Sáu không có vết thẹo dài dữ tợn trên má như ông ấy, ngoại ạ?
Ngoại cười móm mém, xoa đầu tôi và nói:
– Đó là ba Sáu con. Ba con vì đi đánh giặc bị Tây bắn bị thương nên có vết thẹo đó.
Từng lời ngoại nói cứ vang vang trong đầu tôi. Trời ơi! Thì ra đó là ba Sáu thật ư? Vậy mà…tôi đã không nhận ba, lại còn nói trổng nữa chứ! Bao nhiêu năm mong mỏi gặp ba, giờ gặp lại không nhận ra ba. Tôi thấy ân hận quá, giờ biết làm sao đây?
Ngày thứ ba bên ba…
Sáng sớm hôm sau,ngoại thức dậy sớm và nói:
– Hôm nay, ba Sáu lại phải lên đường. Con có về chào ba không Thu?
Tôi gật đầu đồng ý và theo ngoại về. Đến nhà, từ ngoài cổng đã thấy rất đông bà con bên nội, bên ngoại. Khác hẳn những ngày trước, sự xuất hiện của tôi không khiến ai chú ý nữa, kể cả ba và má. Ba bận tiếp khách còn má thì chuẩn bị đồ đạc. Tôi thấy mình như bị bỏ rơi, lặng lẽ đứng nép vào cửa, có lúc đông quá thì đứng nép vào góc nhà nhìn mọi người. Tôi lo lắng, không biết có nên chạy lại gọi ba không, ba sắp đi rồi. Nhưng tôi xấu hổ…nên cứ đứng yên.
Đến lúc ba phải đi, ba nhìn quanh tìm kiếm tôi nhưng ba không chạy lại ôm mà chỉ đứng nhìn trìu mến. Lòng tôi xao động, chân tôi muốn chạy thật nhanh đến ôm lấy ba nhưng sao không thể bước. Ba khẽ nói với tôi:
– Thôi! Ba đi nghe con!
Tiếng của ba sao trìu mến vậy. Tiếng nói ấy đã thúc giục tôi:
– Ba…a…a…ba!
Tôi hét lên và chạy đến ôm cổ ba.Tôi ôm ba thật chặt,lòng cảm thấy ấm áp lạ lùng.Tôi thèm được gọi ba, thèm được ôm ba suốt tám năm nay rồi.Nghĩ đến việc ba sắp phải ra đi,tôi sợ hãi,nói trong tiếng khóc:
– Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con?
Ba cũng rơm rớm nước mắt và nói :
– Ba đi rồi ba sẽ về với con.
– Không!
Tôi hét lên, tôi không thể để cho ba đi nữa, không thể…Tôi cố sức ôm ghì chặt ba. Mọi người và ngoại dỗ dành, an ủi tôi. Ngoại nói:
– Cháu của ngoại giỏi lắm mà! Cháu để ba cháu đi rồi ba cháu sẽ mua về cho cháu cháu một cây lược.
Biết là không thể giữ được ba nữa, ba tôi là bộ đội còn phải đi chiến đấu, diệt thằng Tây ác ôn nên tôi ôm ba một lần nữa và dặn:
– Lúc về ba mua cho con một cây lược nghe ba!
Tôi quệt nước mắt và vẫy chào tạm biệt cha! Tôi đâu biết rằng đó cũng là lần cuối tôi gặp ba. Trong một lần chiến đấu, ba bị bắn trọng thương và hi sinh. Bác Ba-đồng đội của ba đã trao cho tôi kỉ vật ba dành cho tôi: Chiếc lược ngà trên có khắc dòng chữa: “ Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Nhìn từng nét chữ khắc trên cây lược nhỏ xinh xắn, tôi đã bật khóc, lòng tôi đau đớn. Ba Sáu của tôi đã không còn…
Năm mươi năm đã trôi đi, bé Thu bướng bỉnh ngày nào giờ đã trở thành cựu chiến binh. Năm mươi năm tôi đã cố gắng sống thật tốt để không hổ danh con của ba Sáu, cũng là năm mươi năm tôi nhớ ba khôn nguôi. Với tôi, Chiếc lược ngà sẽ trở thành vật bất li thân, người bạn tri kỉ. Tôi tin rằng, ở thế giới bên kia, ba Sáu sẽ mỉm cười hạnh phúc và tự hào về cô con gái bướng bỉnh ngày nào!