Trong buổi học cuối cùng hình ảnh thầy Ha-men hiện lên thật khác với những ngày thường. Thầy mặc chiếc áo rơ -đanh-gôt màu xanh lục diềm lá sen gấp nếp mịn và đội mũ tròn bằng lụa đen thêu. Đó là bộ lễ phục chỉ dùng vào những ngày đặc biệt khi có thanh tra hoặc phát thưởng. Mái tóc đã lốm đốm bạc của thầy được chải gọn gàng. Thầy đi đôi giầy đen rất hợp với bộ trang phục của thầy.
Thầy chuẩn bị bài học rất chu đáo. Giáo án được viết bằng thứ mực đắt tiền; những dòng chữ nghiêng nghiêng, nắn nót nổi bật trên nền giấy trắng tinh. Giọng thầy giảng bài dịu dàng; lời nhắc nhở của thầy cũng hết sức nhã nhặn, trong suốt buổi học thầy không giận dữ quát mắng học sinh một lời nào. Ngay cả với Phrang đi học muộn, thầy cũng chỉ nhẹ nhàng mời vào lớp. Tất cả học sinh đều thấy thầy chưa bao giờ kiên nhẫn đến thế.
Trong bài giảng của mình thầy luôn ca ngợi tiếng Pháp- tiêng nói dân tộc- và tự phê bình mình cũng như mọi người có lúc sao nhãng việc học tập và dạy tiếng Pháp. Mỗi lúc nói đến đó giọng thầy nghẹn lại, lạc đi và gương mặt hằn lên những nếp nhăn đau đớn. Thầy còn nhấn mạnh rằng, chính tiếng Pháp là chìa khóa trong chốn lao tù...
Buổi học cuối cùng kết thúc, những tiếng đồng hồ báo thức khiến thầy xúc động mạnh mặt thầy tái đi, nghẹn ngào không nói lên lời. Thầy viết thật to lên bảng dòng chữ: Nước Pháp muôn năm.
Những thay đổi của thầy Ha-men trong buổi học cuối cùng đã khẳng định chắc chắn: Thầy là người yêu nghề dạy học, yêu tiếng mẹ đẻ, và là người yêu dân yêu nước Pháp sâu sắc. Thầy đã để lại ấn tượng khó quên trong lòng người đọc.
Hơn bốn mươi năm trong nghề, thầy Ha-men là thầy giáo dạy bộ môn tiếng Pháp, thầy là cây “cổ thụ” của trường. Năm nay thầy Ha-men đã già rồi, mái tóc thầy bạc trắng, trên khuôn mặt phúc hậu đã lấm tấm đồi mồi, những nét nhăn như những rẻ quạt tạo nên những lớp sóng trên gương mặt của cái tuổi đã xế chiều. Nhưng dáng đi của thầy vẫn còn nhanh nhẹn, khi cười ánh mắt thầy vẫn sáng và trong.
Hôm nay là buổi học cuối, thầy vẫn đủ can đảm dạy cho đến hết. Thầy mặc chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ tròn băng lụa đen thêu, trông râ’t trang trọng… Thầy run tay khi viết lên bảng đen “Nước Pháp muôn năm!”. Và thầy đứng tựa vào tường giơ tay ra hiệu mọi người về.
Buổi học cuối cùng nói lên không khí lớp học trong buổi học tiếng Pháp cuối cùng ở vùng An-dát; là chuyện của học trò Phăng kể lại tâm trạng của mình về hình ảnh thầy Ha-men, câu chuyện thấm thìa bao nỗi buồn đau mất nước của người thầy, của tuổi thơ, vì dưới ách thống trị của ngoại xâm, cả thầy và trò không còn được dạy và học tiếng mẹ đẻ của dân tộc mình nữa.
Qua văn bản “Buổi học cuối cùng” hình ảnh người thầy giáo yêu nước Ha-men hiện lên thật nghiêm khắc mà mẫu mực – người thầy đã dành trọn bốn mươi năm tâm huyết cho nghề nhà giáo cao quí, bốn mươi năm tâm huyết để truyền dạy tiếng mẹ đẻ cho các thế hệ trẻ vùng An-dát biên giới xa xôi. Để rồi một ngày, thầy nhận được lệnh từ Béc-lin: “từ nay chỉ dạy tiếng Đức ở các trường vùng An-dát, Lo-ren…” thế là các kỉ niệm đau đớn như ùa về với thầy đem theo sự hối hận tận cùng…Thầy nhớ như in những ngày thầy bắt học trò tưới vườn thay vì học hành, rồi những ngày thầy đã không ngại ngùng cho học trò nghỉ học khi mún đi câu cá hương. Nhưng tình yêu nước tha thiết đã trỗi dậy trong thầy vào buổi học tiếng Pháp cuối cùng: thầy mặc chiếc áo Gơ-đanh-gốt vốn chỉ dùng trong những hôm quan trọng, giọng nói thầy tha thiết hơn bao giờ hết và chưa bao giờ thầy kiên nhẫn giảng giải đến vậy. Người thầy tội nghiệp như muốn truyền hết tri thức của mình và một lúc nhét hết nó vào đầu tụi học trò thơ ngây. Đồng hồ đã điểm mười hai giờ, thầy đứng trên bục, người thầy tái nhợt, bất lực ra hiệu cho tụi học trò: “kết thúc rồi…đi đi thôi!”. Tuy nhiên, trong điểm tột cùng của sự đau xót, thầy Ha-men đã có một hành động thật anh dũng, cao cả thể hiện tấm lòng yêu nước, yêu thiết tha tiếng mẹ đẻ đó là cầm phấn dằn hết sức, thầy cố viết thật to:“NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM”