Nhưng thực tế tình hình lại không như dự tính của chúng ta. Các thế lực đế quốc, phản động quốc tế đã câu kết, bao vây, chống phá quyết liệt, hòng thủ tiêu mọi thành quả cách mạng, tái dựng ách thống trị đối với đất nước ta.
Ngày 6-9-1945, quân đội Anh vào Sài Gòn. Ngày 12-9, chúng chiếm trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ, che chở cho lực lượng thân Pháp biểu tình khiêu khích ở Sài Gòn, thả và trang bị vũ khí cho 1.500 lính Pháp bị Nhật giam giữ trước đây và trắng trợn đòi lực lượng vũ trang cách mạng giao nộp vũ khí. Đến ngày 23-9, chúng công khai hậu thuẫn cho quân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai.
Bên cạnh giặc ngoài, các thế lực thù địch, phản động ở trong nước, như “Việt Nam quốc dân đảng” (Việt Quốc) của Vũ Hồng Khanh, “Việt Nam cách mạng đồng chí hội” (Việt Cách) của Nguyễn Hải Thần… tǎng cường chống phá chính quyền cách mạng và chiếm giữ một số địa phương. Các tổ chức phản cách mạng khác, như “Đại Việt quốc dân đảng”, “Đại Việt quốc gia xã hội đảng” v.v.. vẫn bí mật tìm mọi cách hoạt động phá hoại... Thêm vào đó là nạn đói, nạn dốt và tài chính kiệt quệ… đã đặt vận mệnh quốc gia dân tộc ta vào tình thế “ngàn cân treo trên sợi tóc”.
Chủ động và bình tĩnh ứng phó với những thách thức nghiêm trọng trên, xuất phát từ cơ sở nghiên cứu, phân tích tình hình thế giới và hiện trạng đất nước, ngày 25-11-1945, Trung ương Đảng ra chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”, trong đó xác định rõ nhiệm vụ cấp bách trước mắt là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân.
Xác định củng cố chính quyền là vấn đề cơ bản, hàng đầu của cách mạng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương tổ chức sớm cuộc Tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu, lập chính phủ và chấn chỉnh các cơ quan nhà nước. Đồng thời, các địa phương cũng bầu ra hội đồng nhân dân các cấp. Kết quả cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam (ngày 6-1-1946) và Quốc hội thông qua Hiến pháp (ngày 9-11-1946) biểu thị ý chí và sức mạnh của toàn dân trong bảo vệ thành quả cách mạng, khẳng định trên thực tế và về mặt pháp lý một chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân.
Để tǎng cường hơn nữa sức mạnh về chính trị, bên cạnh Mặt trận Việt Minh, theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, gọi tắt là Liên Việt được thành lập (tháng 5-1946), nhằm đoàn kết tất cả các lực lượng và cá nhân chưa có điều kiện tham gia Mặt trận Việt Minh trước đây cùng phấn đấu cho một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ và hùng cường. Khối đoàn kết dân tộc trong các mặt trận này là cơ sở chính trị, xã hội rộng lớn, bảo đảm sự vững mạnh của chính quyền nhân dân, của chế độ mới trước những khó khǎn, thử thách nghiêm trọng này.
Trước nhất, ứng phó với hành động gây hấn của quân Pháp ở Nam Bộ, Đảng chủ trương nhanh chóng phát triển lực lượng vũ trang, tǎng cường sức mạnh quân sự, động viên sức mạnh tổng hợp toàn dân kiên trì kháng chiến. Ngày 23-9-1945, quân dân Sài Gòn - Gia Định và cả Nam Bộ nổ súng đánh quân Pháp, mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc. Theo đó, trên toàn miền Nam, quần chúng nhân dân đồng loạt tổ chức tổng đình công, bãi công, bãi chợ, đồng thời tiến hành chiến tranh du kích rộng khắp, kìm chân và tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, làm thất bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của chúng. Và ngay lập tức, phong trào “Nam tiến” chi viện cho đồng bào miền Nam ruột thịt kháng chiến chống thực dân Pháp được phát động mạnh mẽ và rộng khắp trên các địa phương ở miền Bắc.
Để bảo vệ chính quyền và thành quả cách mạng, lực lượng vũ trang nhân dân không ngừng được phát triển cả về số lượng và chất lượng. Bên cạnh lực lượng Quân đội nhân dân được thành lập từ trước cách mạng (ngày 22-12-1944), ngay sau khi giành chính quyền ở Hà Nội, lực lượng công an nhân dân chính thức ra đời (ngày 19-8-1945). Đây là công cụ bạo lực cần thiết và quyết định bảo đảm cho thắng lợi của sự nghiệp chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám.
Có công cụ bạo lực chuyên chính trong tay, chính quyền cách mạng nhanh chóng xóa bỏ các sở Liêm phóng, Hiến binh, giải tán các đảng phái phản động của chính quyền thực dân. Chính phủ ra các sắc lệnh giải tán “Đại Việt quốc gia xã hội đảng”, “Đại Việt quốc dân đảng” (ngày 5-9-1945) và quản thúc an trí những kẻ nguy hiểm cho nền dân chủ cộng hòa (ngày 13-9-1945); đồng thời kiên quyết trừng trị bọn phản quốc lợi dụng khó khǎn của cách mạng và dựa vào thế lực bên ngoài để chống phá cách mạng. Điển hình nhất là việc điều tra, khám phá và đưa ra xét xử nhóm phản động ở phố Ôn Như Hầu (tháng 7-1946), triệt tiêu kế hoạch lật đổ chính quyền cách mạng của chúng. Đây là minh chứng sống động cho sức mạnh chuyên chính vô sản và uy tín của chính quyền nhân dân.
Đối với giặc ngoài, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rõ: trước sau chính quyền Tưởng Giới Thạch cũng sẽ “trao” Đông Dương lại cho Pháp, miễn là Pháp mang đến cho chúng những lợi ích quan trọng. Do vậy, kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp. Tuy nhiên, để tập trung đối phó với thực dân Pháp, cần phải hòa hoãn, nhân nhượng với quân Tưởng, nhằm tránh phải đối đầu với cả hai kẻ thù cùng một lúc.
Thực hiện chủ trương đó, Đảng ta đề ra chính sách “Hoa - Việt thân thiện”, có những nhân nhượng nhất định: cho quân Tưởng tiêu tiền “quan kim” (mặc dù điều đó làm cho tài chính và thương mại của ta càng thêm nguy ngập); cung cấp lương thực, thực phẩm cho chúng (khi đất nước chưa qua khỏi nạn đói); về quân sự, tránh xung đột với quân Tưởng, tỉnh táo để không rơi vào âm mưu và hành động khiêu khích đảo chính của chúng; về chính trị, mở rộng Chính phủ lâm thời thành Chính phủ liên hiệp lâm thời, “chấp thuận” một số đại diện của Việt Quốc, Việt Cách (tay sai của Tưởng) tham gia Chính phủ… Đặc biệt, Đảng ta đã quyết định rút vào hoạt động bí mật. Đây là sự nhìn nhận và xử trí cực kỳ nhạy bén, sáng suốt, tránh được sự đối đầu có thể dẫn tới đổ vỡ. Tuy nhiên, trong những điều kiện và hoàn cảnh cho phép, nhân dân ta cũng công khai những hành động cần thiết để khẳng định ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, quyết bảo vệ thành quả cách mạng đã giành được.
Với sách lược khôn khéo trong quan hệ với quân Tưởng và các thế lực tay sai của chúng, Đảng và nhân dân ta đã làm thất bại âm mưu và hành động khiêu khích, lật đổ chính quyền của địch, bảo vệ vững chắc được thành quả Cách mạng Tháng Tám; góp phần quan trọng vào việc ổn định miền Bắc, tập trung sức chống thực dân Pháp xâm chiếm Nam Bộ.
Để ứng phó với thực dân Pháp, đúng như nhận định của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”, ngày 28-2-1946, Chính phủ Tưởng Giới Thạch và Chính phủ Đờ Gôn đã ký “Hiệp ước Hoa - Pháp”, thỏa thuận để quân Pháp ra miền Bắc thay thế quân Tưởng “canh giữ tù binh Nhật” và giữ trật tự theo hiệp ước quốc tế. Có thể khẳng định, đây thực chất là sự mua bán chính trị, ngã giá về lợi ích dân tộc hẹp hòi giữa các thế lực đế quốc trên lưng nhân dân Việt Nam - một sự áp đặt như “việc đã rồi”, bất chấp Chính phủ và nhân dân ta có thừa nhận hay không.
Lường trước tình huống phức tạp trên, Đảng và Chính phủ ta quyết định tạm thời hòa hoãn với Pháp, cho quân Pháp ra miền Bắc, nhằm tránh tình thế cùng một lúc phải đấu tranh với nhiều kẻ thù, bảo toàn thực lực, tạo thêm thời gian củng cố chính quyền và thành quả cách mạng, tǎng cường tiềm lực để đưa cách mạng tiến lên; đồng thời để sớm gạt được quân Tưởng ra khỏi nước ta và loại trừ bọn tay sai của chúng. Đây chính là sách lược “Hòa để tiến” của ta. Tuy nhiên, chính nhiều quan chức chính quyền và quân đội Pháp cũng phải thừa nhận một thực tế là họ không thể dễ dàng đưa quân vào miền Bắc nếu không đàm phán với Chính phủ Hồ Chí Minh.
Chấp nhận tạm thời hòa hoãn và có nhân nhượng cần thiết để quân Pháp ra miền Bắc, nhưng không phải hoàn toàn theo “Hiệp ước Hoa - Pháp”, mà phải theo những điều khoản đàm phán ký kết trong “Hiệp định sơ bộ Việt - Pháp” (ngày 6-3-1946), cụ thể nước Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, quân đội, tài chính riêng trong Liên bang Đông Dương và Khối liên hiệp Pháp; Việt Nam thỏa thuận cho quân đội Pháp vào thay quân đội Trung Hoa dân quốc (quân đội Tưởng Giới Thạch) trong thời hạn không quá 5 năm; hai bên đình chiến, quân đội hai bên giữ nguyên vị trí đóng quân để tiến hành đàm phán chính thức.
Để thống nhất nhận thức và hành động trong Đảng và toàn dân, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Hòa để tiến” (ngày 9-3-1946), nhằm nhắc nhở và đề phòng xu hướng “tả” khuynh, không muốn hòa với Pháp, không tin chủ trương hòa với Pháp là đúng. Xu hướng này có thể xuất phát từ lòng yêu nước chính đáng, nhưng nông nổi, có thể dẫn đến hành động tự phát, dễ bị bọn phản động khiêu khích. Đồng thời tránh cả xu hướng “hữu” khuynh, ngây thơ tưởng rằng Hiệp định Việt - Pháp đã giúp dân tộc ta tránh được mọi khó khǎn rồi. Xu hướng này dễ gây ảo tưởng, mất cảnh giác, không chuẩn bị đối phó với mọi bất trắc, dẫn đến bị động nếu thực dân Pháp tráo trở. Cẩn trọng hơn, ngay sau khi ký kết “Hiệp định sơ bộ Việt - Pháp”, Chính phủ ta cử một phái đoàn sang thăm viếng, giữ “quan hệ hòa hảo” với Chính phủ Trùng Khánh (ngày 18-3-1946).
Thực hiện sách lược hòa hoãn với Pháp là một đòn nặng đánh vào dã tâm thâm độc phá cuộc đàm phán Việt - Pháp, “đuổi” nhanh quân Tưởng ra khỏi bờ cõi, góp phần làm tan rã bọn phản động tay sai của chúng.
Tuy nhiên, việc bảo vệ thành quả và phát triển lực lượng cách mạng của ta từ sau “Hiệp định sơ bộ Việt - Pháp” diễn ra hết sức cam go. Một mặt, ta kiên trì đấu tranh ngoại giao, duy trì khả nǎng hòa hoãn, tỏ rõ lập trường hòa bình, hữu nghị với chính quyền Pháp; mặt khác, kiên quyết đấu tranh đẩy lùi những âm mưu, hành động khiêu khích, lấn tới của quân Pháp.
Với tư cách là thượng khách của Chính phủ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh có chuyến thăm nước Pháp (từ ngày 31-5-1946); trực tiếp tham gia đoàn đàm phán giữa Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Pháp (từ ngày 6-7-1946), nhưng không đạt kết quả. Cũng trong khoảng thời gian trên, quân Pháp đã ngang nhiên chiếm đóng trái phép trụ sở Phủ toàn quyền cũ ở Hà Nội (ngày 25-6-1946), kế hoạch đảo chính lật đổ Chính phủ ta (ngày 14-7-1946), lập “Chính phủ Nam kỳ tự trị”… đã lật tẩy mưu đồ tiến hành chiến tranh xâm lược trước sau không đổi của giới cầm quyền hiếu chiến Pháp. Dù vậy, trước khi rời nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Chính phủ Pháp bản “Tạm ước Việt - Pháp” (ngày 14-9-1946), thể hiện thiện chí hòa bình trước sau như một của Chính phủ và nhân dân Việt Nam. Mặt khác, để Đảng, Chính phủ và nhân dân ta có thêm thời gian và điều kiện xúc tiến nhanh việc chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng đối phó với những bước leo thang phiêu lưu mới của thực dân Pháp.
Đến tháng 12-1946, không thể chấp nhận hơn được nữa những yêu sách và hành động phản trắc, ngang ngược của quân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Như vậy, trong vòng 16 tháng (từ tháng 9-1945 đến tháng 12-1946), một trong những thành công nổi bật của Đảng ta góp phần bảo vệ chính quyền và thành quả cách mạng là chủ động, khôn khéo, mềm dẻo để ứng phó hiệu quả với thù trong, giặc ngoài; lúc thì hòa hoãn nhân nhượng với quân Tưởng để rảnh tay đối phó với thực dân Pháp, lúc thì tạm thời hòa hoãn với Pháp để đuổi nhanh quân Tưởng về nước. Đó là những biện pháp cực kỳ sáng suốt và là một mẫu mực của sách lược về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù và sự nhân nhượng có nguyên tắc trong chỉ đạo cách mạng của Đảng ta.
Cách thức ứng phó với thù trong, giặc ngoài, bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám dù cách nay đã gần 7 thập niên, song tính thời sự vẫn còn vẹn nguyên giá trị, nhất là đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự và chủ quyền biên giới đất liền và biển, đảo của Tổ quốc hiện nay.
Để bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, chúng ta trước sau kiên định phương châm dựa trên chứng cứ lịch sử, pháp lý quốc tế kiên quyết đấu tranh đến cùng, đồng thời không ngừng mở rộng quan hệ đối ngoại, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Đặc biệt, trong quá trình đấu tranh, việc tránh khiêu khích, gây hấn xung đột vũ trang - tức là không mắc mưu khiêu khích tạo cớ của đối phương trên biển trong thời gian qua - góp phần quyết định trong việc bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc là sự kế thừa hiệu quả kinh nghiệm xương máu được đúc kết từ việc bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Đối với trong nước, lợi dụng vấn đề phức tạp ở Biển Đông, các thế lực chống đối trong nước được các tổ chức phản động nước ngoài mua chuộc, lợi dụng và kích động đã gây nên những hành động phá hoại ở một số khu công nghiệp liên doanh với nước ngoài, gây hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, an ninh, quốc phòng của đất nước, phá môi trường đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, làm xấu đi hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế… Ứng xử với tình huống này, chúng ta đã kiên quyết điều tra, nghiêm trị những phần tử chống đối, phá hoại theo pháp luật; bồi thường thiệt hại thỏa đáng cho các cơ sở bị hại; tăng cường công tác bảo vệ an ninh cho các khu công nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh có vốn đầu tư nước ngoài; đồng thời mạnh dạn cải thiện môi trường đầu tư, mở rộng quan hệ đối ngoại với các quốc gia, vùng lãnh thổ trong khu vực và thế giới… Với những việc làm như vậy, chúng ta đã ổn định được tình hình, lấy lại niềm tin, nâng thêm uy tín của mình trên trường quốc tế. Vậy là, một kinh nghiệm nữa từ việc bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám năm 1945 được vận dụng thành công vào thực tiễn hiện nay.
Sau cách mạng tháng 8 , tình hình nước ta vô cùng khó khăn, có thể nói là " ngàn cân treo sợi tóc" . Bên cạnh "giặc đói", "giặc dốt', ngân khố cạn kiệt thì nước ta còn phải đấu tranh chống thù trong giặc ngoài
- Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc: 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc kéo vào nước ta theo sau là các đảng phái tay sai hòng cướp chính quyền.
- Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam: Quân Anh kéo vào, dọn đường cho Pháp trở lại xâm lược nước ta.
- Trên cả nước: còn 6 vạn quân Nhật chờ giải giáp, theo lệnh Anh chống phá cách mạng.
Trước tình hình đó , Trung ương đảng đã sáng suốt phân tích tình thế cách mạng thế giới, sức mạng mới của Dân tộc để vạch ra chủ trương, giải pháp nhằm giữ vững chính quyền, bảo vệ độc lập. Ngày 25-11-1945, Đảng ra chỉ thị về kháng chiến kiến quốc, vạch ra con đường đi lên của Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
+ Về chỉ đạo chiến lược: Đảng ta xác định mục tiêu cần nêu cao của cách Mạng Việt Nam lúc này vẫn là dân tộc giải phóng, khẩu hiệu lúc này là “ Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết” nhưng không phải giành độc lập mà là giữ độc lập.
+ Về xác định kẻ thù: Đảng phân tích âm mưu của các nước Đế quốc đối với Đông Dương và chỉ rõ “ Kẻ thù chính của chúng t a là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”. Vì vậy phải lập “Mặt trận dân tộc thống nhất chống Thực dân Pháp xâm lược”, mở rộng mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp của nhân dân.
+ Về phương hướng nhiệm vụ: Đảng nêu ra 4 nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách cần khẩn trương thực hiện là “ Củng cố chính quyền, Chống thực dân Pháp xâm lược, Bài trừ nội phản và Cải thiện đời sống nhân dân”. Đảng chủ trương kiên trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu “Hoa- Việt thân thiện” đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và “Độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế” đối với Pháp.