Dựa vào nd phần đầu tác phẩm chuyện người con gái nam xương (từ đầu đến "bấy giờ chàng mới tỉnh ngộ ,thấu nỗi oan của vợ,nhưng việc đã chót qua rồi !") ,hãy đóng vai Trương Sinh để kể lại câu chuyện và bày tỏ niềm ân hận.
Lưu ý
a) Sử dụng yếu tó nghị luận ,miêu tả nội tâm ,các hình thức đối thoại ,độc thoại
Thời gian thấm thoát trôi qua, bé Đản con tôi nay đã khôn lớn trưởng thành nhưng mỗi khi thấy con thẫn thờ trước di ảnh của mẹ, lòng tôi lại quặn thắt.Bao nhiêu năm qua, tôi luôn sống trong tâm trạng dày vò ân hận,chỉ vì cái tính đã nghi hay ghen của tôi mà bé Đản mãi mãi trở thành đứa con mồ côi mẹ,HP gia đình tôi tan vỡ .Cứ mỗi lần nhớ lại chuyện xưa lòng tôi lại trào dâng niềm cảm
Tôi là Trương Sinh, con 1 gia đình hào phú.Cùng làng có nàng Vũ Nương nổi tiếng xinh đẹp nết na .Vì mến dung hạnh của nàng nên tôi xin mẹ trăm lạng vàng để có thể lấy nàng lm vk.Quả nhiên trong cuộc sống vk ck nàng rất biết cách cư xử nên c/s vk ck tôi khá êm đềm hạnh phúc.
Nhưng hạnh phúc gia đình chưa đc bao lâu, đúng lúc nàng sắp sinh thì nước nhà có biến nên tôi phải đi tòng quân hàng đầu .Ngày chia tay nàng đã khóc khi nâng chén rượu đầy cho tôi
-Chàng đi chuyến này...hồng bay bổng
Nghe nàng ns vậy tôi vừa thương nàng vừa trân trọng nàng,nàng quả thật là người ko ham vinh hoa phú quý,nàng coi trọng sự an nguy của tôi và gia đình.Giây phút ct thật buồn rồi tôi fair dứt áo ra đi .Trong suốt tgian đi lính tôi luôn cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ và mong mỏi ngày trở về đoàn tụ cùng gia đình.Tôi luôn canh cánh trong lòng:"Không bt VN ở nhà ra sao?1 mik nàng phai nuôi dỵ con thơ vừa chăm sóc mẹ già ốm yêu chắc vất vả lắm!"
Rồi giặc cũng tan, tôi được trở về trong niềm vui và đoàn tụ. Về đén đầu làng,tôi đã thấy VN bế con ra đón:
Ôi, 1 bé tri mới kháu khỉnh làm sao!
Ôm con vào lòng tôi sung sướng hạnh và tự hào về nàng phúc vô bờ,Bế con vào nhà, nhìn thấy di ảnh của mẹ ,tôi đau sót vô cùng .Ngày hôm sau,tôi tranh thủ đi thăm họ hàng làng xóm.Ai cx vui cho tôi vì đã trở về an toàn ,mọi người còn kể cho tôi nghe VN ở nhà đảm đang tháo vát hiếu thảo vs mẹ ck,đặc biệt điều khiến tôi cảm động nhất là nàng đã căm sóc tận tình chu đáo và lo ma chay tế lễ cho mẹ tôi .Tôi thầm biết ơn và tự hào về nàng
Hôm sau, tôi bế con đi viếng mộ mẹ. Ra đến đồng thằng bé bỗng quấy khóc,tôi dỗ dành con:
- Nín đi con...lắm rồi
Nghe tôi nói bé Đản liền hỏi:
-Ơ thì ra ông cũng là cha tôi ư?
Tôi giật mik ,lóe lên suy nghĩ :"Chẳng lẽ thằng bé còn có người cha nào khác ư?"Tôi liền gặng hỏi thi thằng nói:
-Trước đây có 1 người...bế Đản cả
Tôi chết lặng người khi nghe thằng bé nói.Trời ơi!Chẳng lẽ VN lại thất tiết ư,người vk mà tôi yêu thương nhất lại hư thân mất nết như v sao.Còn lời của bé Đản?Trẻ con có bao giờ biết nói dối đâu?Rồi cơn ghen trong người tôi trổi dậy .Về đến nhà tôi la um sùm lên cho hả giận.Mặc dù nàng đã hết lòi thanh minh nhưng tôi vẫn ko tin, tôi bỏ ngoài tai hết nhừng lời biện bạch của nnagf và lời biện hộ của hàng xóm .Trong cơn ghen,trong phút hồ đồ tôi dã đuổi nàng ra khỏi nhà
Sau khi nàng đi ,tôi nghe người trong làng nói nàng đã nhảy xuống sông Hoàng Giang tự vẫn .Tuy giận nàng thất tiết nhưng thấy nàng tụ vẫn nên toi cũng động lòng thương nên đã tìm vớt thay nàng lên nhưng chảng thấy. Cx từ ngày đó tôi luôn sống trong cảnh gà trống nuôi con,còn bé Đản sống thiếu hơi ấm của mẹ.
Một đêm vắng vẻ, tôi ngồi ôm con bên ngọn đèn mới thắp, lòng buồn rầu nghĩ đến Vũ Nương. Bỗng thằng bé reo lên:
Tôi vội hỏi đâu thì nó chỉ vào cái bóng của tôi trên tấm vách. Tôi chợt hiểu ra mọi chuyện. Trời ơi! Chính tôi đã giết vợ mình. Vợ tôi đã chết oan uổng vì sự hồ đồ, đa nghi, cả ghen, ích kỉ,… của chính tôi. Tôi hối hận quá. Nhưng muộn mất rồi. Chính tôi đã làm tôi mất vợ, làm bé Đản mất mẹ. Tôi ân hận quá nhưng muộn mất rồi...
Câu chuyện của tôi, những sai lầm của tôi là có thật. tôi đã đánh mất hạnh phúc của mình. Kể ra câu chuyện đau lòng này, tôi chỉ muốn mọi người đừng xử sự nông nổi, cả giận mất khôn như tôi. hãy tin yêu con người, thực lòng yêu thương người thân để gia đình không rơi vào những bi kịch đau đớn.
hãy đóng vai Trương Sinh để kể lại câu chuyện và bày tỏ niềm ân hận.
Tôi sinh ra trong một gia đình khá giả ở Nam Xương. Vừa tới tuổi đôi mươi thì được cha mẹ cưới vợ cho. Vợ tôi là Vũ Thị Thiết, dung mạo đoan trang, tính nết hiền lành, chăm chỉ.
Chúng tôi sống với nhau hòa thuận, hạnh phúc và cùng háo hức chờ đợi đứa con đầu lòng sắp ra đời. Bất ngờ, chiến tranh bùng nổ, loạn lạc xảy ra khắp chốn. Nhận được lệnh sung vào lính, tôi đành chia tay mẹ già, vợ trẻ để lên đường ra trận.
Lúc tiễn đưa, mẹ già nắm chặt tay tôi, ngậm ngùi khuyên:
– Con ráng giữ mình nơi mũi tên hòn đạn, gặp khó nên lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy. Quan cao tước lớn nhường cho người ta. Có như thế, mẹ ở nhà mới khỏi lo lắng vì con được.
Tôi quỳ xuống vâng lời mẹ dạy. Vợ tôi rót chén rượu đầy nâng bằng hai tay đưa cho tôi và nói rằng:
– Chàng ra đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong chàng được đeo ân phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ. Chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao. Rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú. Dù thư tín có nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng.
Nàng nói đến đây, mọi người đều ứa nước mắt. Rồi tiệc tiễn vừa tàn, tôi dứt áo lên đường. Mọi vật xung quanh vẫn như cũ, nhưng lòng tôi đã bùi ngùi bởi cảnh sinh li và mối tình ngàn dặm quan san cách trở.Tôi đi được một tuần thì vợ tôi sinh con trai. Nàng đặt tên cho con là Đản. Có đứa bé, cửa nhà cũng bớt phần hiu quạnh. Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm. Mẹ già nhớ thương, lo lắng cho tôi đến nỗi lâm bệnh nặng. Biết không sống được, bà nói với vợ tôi rằng:
– Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải là không muốn đợi chồng con trở về. Song lòng tham vô cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết, chuông rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi, chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được, sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn. Xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ.
Dứt lời, mẹ tôi nhắm mắt. Vợ tôi khóc lóc xót thương và lo liệu chôn cất cho mẹ tôi được mồ yên mả đẹp.
Một năm sau, giặc giã đã bị dẹp yên, tôi khăn gói trở về quê cũ. Biết tin mẹ đã qua đời, tôi đau đớn lắm! Đón đứa con trai từ tay vợ, tôi bế con ra mộ mẹ để thắp nhang. Ra đến đồng, nó quấy khóc mãi, tôi dỗ dành sao cũng không chịu nín. Tôi bảo con:
– Nín đi con, đừng khóc nữa! Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi!
Bất chợt, con tôi bi bô nói:
– Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.
Tôi ngạc nhiên gặng hỏi thì con tôi kể rằng đêm nào cũng có một người đàn ông đến nhà. Mẹ nó ngồi cũng ngồi, mẹ nó đi cũng đi theo, nhưng không bao giờ bế nó cả.
Tính tôi vốn đa nghi. Nghe con nói vậy thì cơn ghen chợt bùng lên dữ dội. Tôi vội về nhà, la hét om sòm cho hả giận. Vợ tôi ôm mặt khóc mà rằng:
– Thiếp vốn con nhà nghèo khó, may được nương tựa nhà giàu. Vợ chồng sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn, từng đã nguôi lòng, ngõ liễu đường hoa, chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết như lời chàng nói. Dám xin chàng cho thiếp được bày tỏ, để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng nghi oan cho thiếp!
Nhưng mặc cho nàng thanh minh thế nào tôi cũng không tin. Nàng hỏi tôi chuyện kia do ai nói thì tôi giấu không cho nàng biết. Tôi mắng nhiếc nàng thậm tệ rồi đuổi ra khỏi nhà, dù hàng xóm hết lời bênh vực. Cuối cùng, nàng ngậm ngùi vừa nói vừa khóc:
– Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân con én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa?!
Đoạn nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:
– Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám! Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, xin vào nước làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
Nói xong, nàng gieo mình xuống sông mà chết. Tuy giận là nàng thất tiết nhưng thấy nàng tự vẫn, tôi cũng động lòng thương, cố vớt thây nàng để chôn nhưng tìm mãi không được. Một đêm, tôi ngồi buồn bã trước ngọn đèn khuya. Chợt đứa con trai bật thốt: – Cha Đản lại đến kia kìa! rồi chỉ tay vào bóng tôi in trên vách: – Đây này! Tôi chợt hiểu ra tất cả và ân hận vô cùng! Thì ra trong thời gian tôi vắng nhà, đêm đêm, vợ tôi thường đùa với con, trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản. Tôi thấu hiểu nỗi oan tày trời của vợ và trách mình sao quá nhẫn tâm, nhưng mọi chuyện trót đã qua rồi!
Ở bến sông cạnh làng, có người giữ chức quan đầu mục tên là Phan Lang, một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh xin tha mạng. Sáng ra, có người biếu ông một con rùa mai xanh. Nhớ lại giấc mơ, ông liền thả con rùa ấy xuống sông.
Mấy năm sau, giặc Minh xâm phạm cửa ải Chi Lăng, dân chúng hoảng sợ lên thuyền chạy trốn ra ngoài biển, không may gặp bão lớn, chết đuối cả. Thây Phan Lang dạt vào một động rùa ngoài hải đảo. Có người đàn bà là Linh Phi trông thấy nói rằng: – Đây là vị ân nhân đã cứu sống ta thuở xưa! Rồi bà ta lấy thuốc thần cho uống. Lát sau, Phan Lang sống lại.
Linh Phi truyền mở tiệc thết đãi. Trong đám người dự tiệc, có một mĩ nhân chỉ trang điểm sơ qua, nét mặt rất giống Vũ Nương. Phan Lang bèn hỏi chuyện và được nàng cho biết mình là Vũ Thị Thiết, người cùng làng, vì oan khuất mà phải gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn và được các tiên nữ dưới thủy cung đưa về đây cùng chung sống với Linh Phi.
Trước khi Phan Lang được đưa ra khỏi thủy cung, Vũ Nương có nhờ ông ta nói với tôi rằng sẽ có ngày nàng tìm về. Nếu tôi còn nhớ tình xưa nghĩa cũ thì hãy lập một đàn giải oan ở bến sông.
Về đến làng, Phan Lang tìm gặp tôi, kể lại mọi chuyện, nhưng tôi không tin. Lúc ông ta đưa ra kỉ vật làm tin là chiếc hoa vàng của vợ tôi thì tôi sợ hãi nhận rằng đây đúng là vật mà nàng mang theo lúc ra đi.
Sáng hôm sau, tôi làm theo đúng lời nàng dặn, lập đàn giải oan suốt ba ngày đêm ở bến sông. Quả nhiên, tôi nhìn thấy Vũ Nương ngồi trên chiếc kiệu hoa ở giữa dòng, theo sau là năm mươi cỗ xe trang trí cờ tán, võng lọng rực rỡ, lúc ẩn lúc hiện. Tôi vội gọi thật lớn nhưng nàng vẫn ở giữa sông mà nói vọng vào:
– Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết không bỏ. Đa tạ tình chàng, nhưng thiếp không thể trở về nhân gian được nữa!
Trong phút chốc, tất cả tan biến. Tôi gục đầu thổn thức. Một sự ân hận ghê gớm vò xé lòng tôi. Chỉ vì một cơn ghen mù quáng mà tôi đã làm cho vợ chồng, mẹ con lâm vào cảnh sinh li tử biệt. Sai lầm của tôi không phương cứu chữa. Tôi chỉ còn mong ước mọi người hãy nhìn vào thảm cảnh của gia đình tôi mà rút ra bài học: Đã là vợ chồng thì hãy thương yêu, tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau. Có như vậy, hạnh phúc mới được bền lâu.