Bài viết số 2 - Văn lớp 9

Anh Doanthilan

Đóng vai chàng Trương trong truyện Người con gái Nam Xương để kể lại câu chuyện.

Akatsu Rossa
11 tháng 10 2018 lúc 12:28

Tôi sinh ra trong một gia đình khá giả ở Nam Xương. Vừa tới tuổi đôi mươi thì được cha mẹ cưới vợ cho. Vợ tôi là Vũ Thị Thiết, dung mạo đoan trang, tính nết hiền lành, chăm chỉ.

Chúng tôi sống với nhau hòa thuận, hạnh phúc và cùng háo hức chờ đợi đứa con đầu lòng sắp ra đời. Bất ngờ, chiến tranh bùng nổ, loạn lạc xảy ra khắp chốn. Nhận được lệnh sung vào lính, tôi đành chia tay mẹ già, vợ trẻ để lên đường ra trận.

Lúc tiễn đưa, mẹ già nắm chặt tay tôi, ngậm ngùi khuyên:

– Con ráng giữ mình nơi mũi tên hòn đạn, gặp khó nên lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy. Quan cao tước lớn nhường cho người ta. Có như thế, mẹ ở nhà mới khỏi lo lắng vì con được.

Tôi quỳ xuống vâng lời mẹ dạy. Vợ tôi rót chén rượu đầy nâng bằng hai tay đưa cho tôi và nói rằng:

– Chàng ra đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong chàng được đeo ân phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ. Chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao. Rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú. Dù thư tín có nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng.

Nàng nói đến đây, mọi người đều ứa nước mắt. Rồi tiệc tiễn vừa tàn, tôi dứt áo lên đường. Mọi vật xung quanh vẫn như cũ, nhưng lòng tôi đã bùi ngùi bởi cảnh sinh li và mối tình ngàn dặm quan san cách trở.Tôi đi được một tuần thì vợ tôi sinh con trai. Nàng đặt tên cho con là Đản. Có đứa bé, cửa nhà cũng bớt phần hiu quạnh. Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm. Mẹ già nhớ thương, lo lắng cho tôi đến nỗi lâm bệnh nặng. Biết không sống được, bà nói với vợ tôi rằng:

– Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải là không muốn đợi chồng con trở về. Song lòng tham vô cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết, chuông rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi, chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được, sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn. Xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ.

Dứt lời, mẹ tôi nhắm mắt. Vợ tôi khóc lóc xót thương và lo liệu chôn cất cho mẹ tôi được mồ yên mả đẹp.

Một năm sau, giặc giã đã bị dẹp yên, tôi khăn gói trở về quê cũ. Biết tin mẹ đã qua đời, tôi đau đớn lắm! Đón đứa con trai từ tay vợ, tôi bế con ra mộ mẹ để thắp nhang. Ra đến đồng, nó quấy khóc mãi, tôi dỗ dành sao cũng không chịu nín. Tôi bảo con:

– Nín đi con, đừng khóc nữa! Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi!

Bất chợt, con tôi bi bô nói:

– Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.

Tôi ngạc nhiên gặng hỏi thì con tôi kể rằng đêm nào cũng có một người đàn ông đến nhà. Mẹ nó ngồi cũng ngồi, mẹ nó đi cũng đi theo, nhưng không bao giờ bế nó cả.

Tính tôi vốn đa nghi. Nghe con nói vậy thì cơn ghen chợt bùng lên dữ dội. Tôi vội về nhà, la hét om sòm cho hả giận. Vợ tôi ôm mặt khóc mà rằng:

– Thiếp vốn con nhà nghèo khó, may được nương tựa nhà giàu. Vợ chồng sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn, từng đã nguôi lòng, ngõ liễu đường hoa, chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết như lời chàng nói. Dám xin chàng cho thiếp được bày tỏ, để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng nghi oan cho thiếp!

Nhưng mặc cho nàng thanh minh thế nào tôi cũng không tin. Nàng hỏi tôi chuyện kia do ai nói thì tôi giấu không cho nàng biết. Tôi mắng nhiếc nàng thậm tệ rồi đuổi ra khỏi nhà, dù hàng xóm hết lời bênh vực. Cuối cùng, nàng ngậm ngùi vừa nói vừa khóc:

– Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân con én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa?!
Đoạn nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:

– Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám! Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, xin vào nước làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.

Nói xong, nàng gieo mình xuống sông mà chết. Tuy giận là nàng thất tiết nhưng thấy nàng tự vẫn, tôi cũng động lòng thương, cố vớt thây nàng để chôn nhưng tìm mãi không được. Một đêm, tôi ngồi buồn bã trước ngọn đèn khuya. Chợt đứa con trai bật thốt: – Cha Đản lại đến kia kìa! rồi chỉ tay vào bóng tôi in trên vách: – Đây này! Tôi chợt hiểu ra tất cả và ân hận vô cùng! Thì ra trong thời gian tôi vắng nhà, đêm đêm, vợ tôi thường đùa với con, trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản. Tôi thấu hiểu nỗi oan tày trời của vợ và trách mình sao quá nhẫn tâm, nhưng mọi chuyện trót đã qua rồi!

Ở bến sông cạnh làng, có người giữ chức quan đầu mục tên là Phan Lang, một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh xin tha mạng. Sáng ra, có người biếu ông một con rùa mai xanh. Nhớ lại giấc mơ, ông liền thả con rùa ấy xuống sông.

Mấy năm sau, giặc Minh xâm phạm cửa ải Chi Lăng, dân chúng hoảng sợ lên thuyền chạy trốn ra ngoài biển, không may gặp bão lớn, chết đuối cả. Thây Phan Lang dạt vào một động rùa ngoài hải đảo. Có người đàn bà là Linh Phi trông thấy nói rằng: – Đây là vị ân nhân đã cứu sống ta thuở xưa! Rồi bà ta lấy thuốc thần cho uống. Lát sau, Phan Lang sống lại.

Linh Phi truyền mở tiệc thết đãi. Trong đám người dự tiệc, có một mĩ nhân chỉ trang điểm sơ qua, nét mặt rất giống Vũ Nương. Phan Lang bèn hỏi chuyện và được nàng cho biết mình là Vũ Thị Thiết, người cùng làng, vì oan khuất mà phải gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn và được các tiên nữ dưới thủy cung đưa về đây cùng chung sống với Linh Phi.

Trước khi Phan Lang được đưa ra khỏi thủy cung, Vũ Nương có nhờ ông ta nói với tôi rằng sẽ có ngày nàng tìm về. Nếu tôi còn nhớ tình xưa nghĩa cũ thì hãy lập một đàn giải oan ở bến sông.

Về đến làng, Phan Lang tìm gặp tôi, kể lại mọi chuyện, nhưng tôi không tin. Lúc ông ta đưa ra kỉ vật làm tin là chiếc hoa vàng của vợ tôi thì tôi sợ hãi nhận rằng đây đúng là vật mà nàng mang theo lúc ra đi.

Sáng hôm sau, tôi làm theo đúng lời nàng dặn, lập đàn giải oan suốt ba ngày đêm ở bến sông. Quả nhiên, tôi nhìn thấy Vũ Nương ngồi trên chiếc kiệu hoa ở giữa dòng, theo sau là năm mươi cỗ xe trang trí cờ tán, võng lọng rực rỡ, lúc ẩn lúc hiện. Tôi vội gọi thật lớn nhưng nàng vẫn ở giữa sông mà nói vọng vào:

– Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết không bỏ. Đa tạ tình chàng, nhưng thiếp không thể trở về nhân gian được nữa!

Trong phút chốc, tất cả tan biến. Tôi gục đầu thổn thức. Một sự ân hận ghê gớm vò xé lòng tôi. Chỉ vì một cơn ghen mù quáng mà tôi đã làm cho vợ chồng, mẹ con lâm vào cảnh sinh li tử biệt. Sai lầm của tôi không phương cứu chữa. Tôi chỉ còn mong ước mọi người hãy nhìn vào thảm cảnh của gia đình tôi mà rút ra bài học: Đã là vợ chồng thì hãy thương yêu, tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau. Có như vậy, hạnh phúc mới được bền lâu.

Bình luận (0)
Nguyễn Lan Hương
21 tháng 11 2019 lúc 19:08

Hoàng hôn đã ngả những ánh nắng yếu ớt lên vùng quê Nam Xương. Ta vác cày trở về căn nhà nhỏ bé của mình. Căn nhà này bấy lâu nay đã không vang tiếng cười. Bàn ghế lại bụi bặm bởi không có bàn tay ấm áp của người phụ nữ chăm sóc nên căn nhằ càng trở lên lạnh lẽo. Càng nhìn, ta càng cảm thấy lòng đau thắt lại khi nhớ đến người phụ nữ mà ta hằng yêu dấu lại bị chính ta phũ phàng đẩy đến bước phải gieo mình xuống sông Hoàng Giang mà chết. Tất cả chỉ vì cái tính đa nghi, gia trưởng, ít học của ta mà hạnh phúc gia đình mãi mãi tan vỡ không thể hàn gắn được. Ta đã làm cho căn nhà này trở nên hiu quạnh, làm cho đứa con trai duy nhất của ta phải khắc khoải mong chờ ngày mẹ nó trở về, hằng mong ước được sống trong tình mẹ, trong mái ấm gia đình hạnh phúc. Ta căm giận chính bản thân mình! Ta thù ghét dòng máu ghen tuông đang chảy trong lồng ngực mình! Ta đã làm gì, đã làm gì để giờ đây phải đau đớn nhường này, bẽ bàng nhường này…

“Vào hai năm trước, ta vốn là chàng trai phong lưu, tốt mã, nhà lại khá giả trong làng. Cùng thời gian ấy có bao nhiều cô gái đến tuổi cập kê. Nhưng trong mắt ta chỉ người con gái tên Vũ Nương là xinh đẹp nhất. Nàng nổi tiếng nết na, thuỳ mị, lại thêm tư dung tốt đẹp nên ai cũng quý mến nàng. Vì quá cảm mến dung hạnh tuyệt vời của nàng nên ta xin mẹ trăm lạng vàng đem đến xin cưới nàng về làm vợ. Nàng quả là người con gắi dịu dàng và hiểu phép tắc. Biết tính ta đa nghi nên nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không để cho vợ chồng phải thất hoà. Bởi vậy, ta với nàng, dù tính tình trái ngược nhau nhưng vợ chồng luôn sống trong cảnh êm đềm hạnh phúc. Nàng luôn dịu dàng với ta, chăm lo cho ta và mẹ chu đáo. Dù là mẹ ta nhưng Vũ Nương luôn coi đó là mẹ ruột và hết lòng hiếu thảo, phụng dưỡng bà…

Cuộc sống bình yên tưởng như có thể trôi qua mãi mãi cho tới khi làng ta nhận được tin dữ: giặc đã xâm lược bờ cõi. Vua đang cho lính đi khắp các làng để tuyển trai tráng đi đánh giặc cứu nước. Ta cũng nằm trong danh sách phải đi lính năm đó. Ngày chia tay, ta không nỡ lòng nào để người vợ nết na một mình vừa mang nặng đứa con của ta, vừa chăm sóc mẹ già cơ chứ! Nàng rót chén rượu đầu tiên mà rằng:

– Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ; chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng…

Ôi, người vợ nết na của ta! Ta cảm động biết mấy khi nàng chẳng màng vinh hoa phú quý, chỉ mong ta có thể bình yên trở về. Nàng vô cùng lo lắng trước mối an nguy mà ta sắp phải chịu đựng và nàng đã khắc khoải nhớ thương ta ngay rồi. Vũ Nương quả là người vợ luôn hết mực yêu thương ta! Ta đi chuyên này, chẳng biết bao giờ mới có thể quay lại nhưng khi nghĩ tới Vũ Nương và mẹ, ta thấy yên lòng đi làm nhiệm vụ nơi xa, luôn mong ngóng ngày trở về đến nhanh.

Nơi chiến trường chỉ đầy chông gai và khắc nghiệt. Bởi vậy, không lúc nào là ta không nghĩ đến nàng. Thiếu vắng nàng, cuộc đời ta thật cô đơn, buồn tẻ. Những mùa đầu khi mới xa nhà, nhìn cảnh vật xung quanh ta, dường như chỉ là một màu xanh đơn điệu. Chiến trường thì chỉ đầy màu sương khói. Nhưng tất cả chỉ làm lòng ta đau nhói và thầm nghĩ rằng mình phải cố gắng để bảo vệ đất nước, bảo vệ những ngôi làng, những cánh đồng,… và đặc biệt là bảo vệ cả người mẹ thân yêu, cả nàng và cả đứa con hình hài máu mủ của ta. Ta cứ thầm nghĩ thế mấy mùa thu, để rồi cũng đến ngày đất nước bình yên, ngày ta được trở về với nàng. Ôi, thật hạnh phúc làm sao! Cứ nghĩ tới là ta lại phơi phới hưng phấn. Bước về làng trong nỗi niềm hân hoan bởi ta sắp được gặp lại mẹ và nàng. Ta sắp được ôm nàng vào lòng, ta sắp được người vợ nết na hết mực yêu thương và chăm sóc này sưởi ấm tâm hồn ta khỏi những ngày lạnh giá trên chiến trường. Gia đình của chúng ta sắp được đoàn tụ và sống hạnh phúc mãi mãi…

Nhưng vừa về tới nơi, ta đã nhận được tin dữ rằng mẹ quá lo lắng và nhớ thương ta mà ốm rồi mất. Ta không khỏi đau lòng. Chiến tranh phi nghĩa đã cướp đi sinh mạng của bao nhiêu người, bao nhiêu đồng đội của ta rồi bây giờ lại cả mẹ ta. Ta thật có lỗi khi không có thể ở nhà để phụng dưỡng, chăm sóc người khi tuổi già sức yếu. Cũng may ta còn có nàng bên cạnh. Biết rằng nàng đã cố gắng chăm sóc mẹ cẩn thận và khi bà mất thì nàng lo ma chay chu đáo nên ta cũng cảm thấy yên lòng phần nào. Nhưng bỗng có một sự việc xảy ra làm ta sụp đổ hoàn toàn. Ta bế bé Đản đi thăm mộ bà nhưng đứa trẻ lại không chịu rồi quấy khóc và không nhận ta là cha. Con ta bảo trước đây thường có người đàn ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, me Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả. Lời nói của bé Đản như sét đánh ngang tai ta. Ta như chết đứng khi nghe tin ấy. Con trẻ thì không thể nói sai bao giờ! Tại sao người đàn ông kia chỉ hằng đêm mới tới? Tại sao hắn chỉ theo vợ ta mà không quan tấm đến con trai ta? Sau chuyện buồn mẹ mất, chuyện này chẳng khác gì thêm dầu vào lửa. Ta nổi giận đùng đùng, không còn đủ thời gian để xem xét, nghĩ ngợi gì nữa. Ta đã chờ mong biết bao nhiêu để được về bên nàng. Ta nhớ thương nàng biết chừng nào trong suốt cuộc chiến tranh dai dẳng. Ta ấp ủ-mong ước được xây dựng hạnh phúc cùng nàng. Vậy mà, sự thật là nàng tặng ta, bù đắp cho ta bằng thói trăng hoa mất nết thế này đây. Đất dưới chân ta như đang chuyển động. Ta lập tức trở về tìm Vũ Nương để hỏi cho ra nhẽ. Nàng phân trần với ta về tình nghĩa vợ chồng, về lòng chung thuỷ của nàng, về tình nghĩa vợ chồng. Nàng đã cầu xin ta nghĩ lại để hạnh phúc gia đình khỏi tan vỡ. Nhưng trong đầu ta lúc bấy giờ, hai chữ “chung thuỷ” của nàng thật vô nghĩa. Chính nàng là người đã phá tan đi hạnh phúc gia đình vậy mà nàng vẫn nói nàng chung thuỷ ư? Trái tim ta khi ấy đã hoá đá mất rồi. Bây giờ nghĩ lại, ta thấy nàng thật đáng thương! Ta đã quá nhẫn tâm khi đánh đập nàng, không nghe nàng nói. Khi ấy, trong tâm ta, ta cảm thấy bàng hoàng, thất vọng đinh ninh là vợ hư nên mới như vậy. Vì quá uất ức, nàng đã chạy ra sông kêu lên YỚi trời đất, với các vị thần linh. Cảm xúc ấy trong ta thật hỗn độn: nửa muốn chạy theo nàng, nửa lại không. Không bởi vì “cái tôi” của ta quá lớn, hơn nữa, nàng lại là người có lỗi chứ không phải ta. Nhưng nửa ta muốn đuổi theo bởi nàng là người ta yêu thương nhất, người ta luôn tin tưởng nên ta không muốn đánh mất nàng. Cuối cùng, “cái tôi”, sự ích kỉ đã chiến thắng. Cái chết của nàng đã làm tim ta trống rỗng. Ta chợt cảm thấy cô đơn, sầu thảm và lạnh lẽo trong tâm hồn. Cho tới đêm hôm ấy, ta như cảm giác trời long đất lở, như rơi xuống vực sâu thẳm nhất của đời người. Khi bé Đản nói rằng cha Đản lại đến và nó chỉ bóng ta trên vách, bấy giờ, ta mới vỡ lẽ ra tất cả. Ta gục xuống, người run lên bần bật! Chính tay ta đã giết chết người phụ nữ mà ta hằng yêu thương, mong nhớ. Ta cảm thấy ăn năn, hối hận vô cùng. Giá mà ta đừng như thế. Giá mà ta bình tĩnh chứ không bồng bột thì ta có thể cứu được hạnh phúc gia đình. Ta thật đáng chết! Ta thật đáng chết!”.

Ta bừng tỉnh sau những dòng suy nghĩ về quá khứ. Tới giờ, ta vẫn chưa thể nguôi ngoai được nỗi căm ghét bản thân mình. Ta có lỗi với nàng, có lỗi với con bởi vậy đến bây giờ, ta cố gắng làm tất cả để đền bù cho bé Đản dù ta biết khi bé Đản hiểu hết sự việc thì vết thương trong lòng nó sẽ là quá lớn không thể bù đắp được. Nhưng ta đã an ủi lòng mình để sống tiếp và sẽ để bé Đản lớn lên được hạnh phúc như cả ta và nàng hằng mong ước…

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa

Các câu hỏi tương tự
Hi Ngo
Xem chi tiết
Lee Je Yoon
Xem chi tiết
Sakugan no Shana
Xem chi tiết
Huy Phước
Xem chi tiết
Lê Vân Anh
Xem chi tiết
Chuột Con Mít Ướt
Xem chi tiết
Thư2302
Xem chi tiết
duyen lethiha
Xem chi tiết
Cà Văn Quốc
Xem chi tiết