a. Mở bài
Giới thiệu bài thơ và hình tượng con hổ.
Bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ được viết năm 1934, in trong tập “Mấy vần thơ” (1935). “Nhớ rừng” là một trong những bài thơ vào hàng kiệt tác của Thế Lữ và của cả phong trào thơ mới.
Con hổ là hình tượng trung tâm của bài thơ. Mượn lời con hổ bị nhốt ở vườn bách thú, tác giả diễn tả niềm khao khát tự do mãnh liệt và tâm sự yêu nước của con người những ngày nô lệ.
b. Thân bài
Tâm trạng của con hổ trong cảnh giam cầm ở vườn bách thú
Niềm căm uất “gậm một khối căm hờn trong cũi sắt” và nỗi ngao ngán “nằm dài trông ngày tháng dần qua” (đoạn 1).
Tâm trạng chán trường và thái độ khinh biệt trước sự tầm thường, giả dối ở vườn bách thú (đoạn 4).
Nỗi “nhớ rừng” da diết không nguôi của con hổ ( đoạn 2, 3 và 5)
Con hổ nhớ cảnh nước non hùng vĩ với tất cả những gì lớn lao, dữ dội, phi thường.
Con hổ nhớ tiếc về một “thuở tung hoành hống hách những ngày xưa” đầy tự do và uy quyền của chúa sơn lâm.
c. Kết bài
Tâm trạng của con hổ là một ấn dụ thể hiện một cách kín đáo tâm trạng của tác giả, cũng là tâm sự yêu nước của những người Việt Nam thuở ấy: họ chán ghét cảnh sống tù túng, tầm thường của thực tại nô lệ và khao khát tự do.
Tâm trạng ấy đã làm nên giá trị và sức sống lâu bền của bài thơ.
1. Mở bài
Giới thiệu bài thơ và hình tượng con hổ.
Bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ được viết năm 1934, in trong tập “Mấy vần thơ” (1935). “Nhớ rừng” là một trong những bài thơ vào hàng kiệt tác của Thế Lữ và của cả phong trào thơ mới.
Con hổ là hình tượng trung tâm của bài thơ. Mượn lời con hổ bị nhốt ở vườn bách thú, tác giả diễn tả niềm khao khát tự do mãnh liệt và tâm sự yêu nước của con người những ngày nô lệ.
2. Thân bài
Tâm trạng của con hổ trong cảnh giam cầm ở vườn bách thú
Niềm căm uất “gậm một khối căm hờn trong cũi sắt” và nỗi ngao ngán “nằm dài trông ngày tháng dần qua” (đoạn 1).
Tâm trạng chán trường và thái độ khinh biệt trước sự tầm thường, giả dối ở vườn bách thú (đoạn 4).
Nỗi “nhớ rừng” da diết không nguôi của con hổ ( đoạn 2, 3 và 5)
Con hổ nhớ cảnh nước non hùng vĩ với tất cả những gì lớn lao, dữ dội, phi thường.
Con hổ nhớ tiếc về một “thuở tung hoành hống hách những ngày xưa” đầy tự do và uy quyền của chúa sơn lâm.
3. Kết bài
Tâm trạng của con hổ là một ấn dụ thể hiện một cách kín đáo tâm trạng của tác giả, cũng là tâm sự yêu nước của những người Việt Nam thuở ấy: họ chán ghét cảnh sống tù túng, tầm thường của thực tại nô lệ và khao khát tự do.
Tâm trạng ấy đã làm nên giá trị và sức sống lâu bền của bài thơ.
MB:Giới thiệu bài thơ và hình tượng con hổ.
Bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ được viết năm 1934, in trong tập “Mấy vần thơ” (1935). “Nhớ rừng” là một trong những bài thơ vào hàng kiệt tác của Thế Lữ và của cả phong trào thơ mới.
Con hổ là hình tượng trung tâm của bài thơ. Mượn lời con hổ bị nhốt ở vườn bách thú, tác giả diễn tả niềm khao khát tự do mãnh liệt và tâm sự yêu nước của con người những ngày nô lệ.
TB:
a)nổi căm hờn và niềm uất hận
khổ 1:ko gian tù hãm kéo dài,nổi nhục bất bình đè nặng
khổ 4:vườn bách thú giả dối,vô hồn,nhỏ bé
-->trạng thái bức bối,ưu uất kéo dài,chán ghét tồn tại,tù túng,tầm thường,giả dối,khao khát đc sống thật,tự do
b)nổi nhơ 1 thời oanh liệt:
khổ 2:
_cảnh sơn lâm:
+bóng cả,cây già,tiếng gió gào ngàn,giọng nguồn hét núi
+điệp từ"với",động từ
-->súc sống tiềm ẩn mãnh liệt giũa núi rừng bí ẩn
_hình ảnh chúa tể
_từ ngữ gợi tả hình dáng:bước chân dõng dạc,lượm tấm thân,vờn bóng,mắt thần đã quắc
-->lẫm liệt,uy nghiêm
khổ 3:-không gian:những đêm,những ngày mưa,những bình minh,những chiều
-cảnh sắc:đêm vàng,ngày mưa,bình minh,nắng gội,chiều lênh láng
-->rực rỡ,sôi động,hùng vĩ,bí ẩn
-đại từ"ta"dc lặp lại nhiều lần cùng với câu cảm thán"than ôi!........còn đâu"
-->nhạc điệu rắn rỏi,khí phách làm chủ nhấn mạnh bộc lộ trực tiếp nổi tiếc nuối cuộc sống tự do
c)khao khát giấc mộnh ngàn:
-không gian: oai linh,hùng vĩ nhưng là một không gian trong mộng
-các câu cảm thán :hoi oai....hùng vĩ
hỡi cảnh ...............ta ơi
-->nổi tiếc nhớ cuộc sống tụ do,sống thật,mãnh liệt nhưng đau xót bất lực
KB:Tâm trạng của con hổ là một ấn dụ thể hiện một cách kín đáo tâm trạng của tác giả, cũng là tâm sự yêu nước của những người Việt Nam thuở ấy: họ chán ghét cảnh sống tù túng, tầm thường của thực tại nô lệ và khao khát tự do.
Tâm trạng ấy đã làm nên giá trị và sức sống lâu bền của bài thơ.
Cre:gg