a. Tình đồng chí của người lính bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân
(4 câu thơ đầu)
- Xuất thân từ những miền quê nghèo:“Quê hương anh nước mặn đồng chua / Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.”
+ Thành ngữ “nước mặn đồng chua” gợi lên những miền đất chiêm trũng, những vùng ngập mặn
+ Hình ảnh “đất cày lên sỏi đá” lấy ý từ câu tục ngữ “chó ăn đá, gà ăn sỏi” gợi lên những vùng trung du đồi núi thiếu nước, cằn cỗi.
+ Giọng điệu thủ thỉ, tâm tình như lời kể chuyện, lời thơ dân giã mộc mạc
à Anh và tôi đều là những người nông dân, ra đi từ những miền quê nghèo đói, lam lũ - miền biển nước mặn, trung du đồi núi.
- Gặp nhau tình cờ ngẫu nhiên: “Anh với tôi đôi người xa lạ /Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”.
+ Anh và tôi ở hai câu thơ trên đứng tách hai dòng khác biệt, tới đây đứng ngang hàng: biểu thị sự gần gũi và gắn kết.
+ “Đôi người xa lạ” (So sánh “đôi” với “hai”): kéo gần khoảng cách thân quen.
+ Chẳng hẹn quen nhau: nhấn mạnh sự tình cờ. Tình cờ chính là cơ duyên tốt nhất cho mọi sự gắn kết.
à Đến từ mọi miền đất nước, vốn là những người xa lạ, các anh đã cùng tập hợp trong một đội ngũ và trở nên thân quen gắn bó với nhau. Cơ sở đầu tiên hình thành tình cảm đó là sự đồng cảm về giai cấp. Họ là những người nông dân áo lính, họ như thấu hiểu những nỗi khổ của nhau, thấu hiểu tâm tư tình cảm của nhau ngay từ lần đầu gặp gỡ.
b. Cùng chung mục đích, lí tưởng chiến đấu
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
- Điệp từ, hình ảnh sóng đôi mang ý nghĩa tượng trưng. “Súng” biểu tượng cho chiến đấu, “đầu” biểu tượng cho lí tưởng. Họ chiến đấu với lý tưởng bảo vệ Tổ Quốc.
- Nhịp thơ 3/3 tạo nên thế sóng đôi, một bên là anh, một bên là tôi, hai người cùng một nhịp, chung một phách luôn sát cánh bên nhau để thực hiện lý tưởng.
à Tình đồng chí, đồng đội được hình thành trên cơ sở cùng chung nhiệm vụ và lí tưởng cao đẹp. Theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu, các anh đã cùng tập hợp dưới quân kì, cùng kề vai sát cánh trong đội ngũ chiến đấu để thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng của thời đại.
c. Cùng chia sẻ mọi gian lao, thiếu thốn
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
- Hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn, thiếu quân trang
- Hình ảnh giản dị, gợi cảm “chung chăn” “đôi tri kỉ”: sự chia sẻ với nhau những thiếu thốn.
à Chính trong những ngày gian khó, các anh đã trở thành tri kỉ của nhau, cùng chung nhau cái giá lạnh mùa đông, chia nhau cái khó khăn trong một cuộc sống đầy gian nan. Đó là cơ sở nữa để tình đồng chí càng thêm gắn bó.
d. Tình đồng chí được gắn kết thiêng liêng ở câu thơ “Đồng chí”
- Cấu trúc câu thơ đặc biệt, tạo điểm nhấn cho cả bài, kết cấu bó mạ.
- Nơi kết tinh của tình đồng chí cao đẹp, thiêng liêng. Trước câu thơ này, họ là những người xa lạ gặp nhau, có chung mục đích, chia sẻ nhau những khó khăn vật chất ban đầu sau câu thơ này, họ trở thành những người đồng chí thân thương, có thể chia sẻ với nhau mọi điều. Câu thơ khép lại nhưng mở ra những chân trời xúc cảm khác về sự thấu hiểu, gắn kết của tình đồng chí.
Bài thơ “Đồng chí” là một trong những bài thơ hay nhất về tình đồng đội, đồng chí của các anh bộ đội cụ hồ trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Với cảm nhận tinh tế, tác giả Chính Hữu – một nhà thơ, chiến sĩ đã xúc động mà sáng tác ra bài thơ. Tình đồng chí đồng đội sâu nặng dù trong hoàn cảnh khó khăn và thiếu thốn được thể hiện rõ nhất trong 7 câu thơ đầu cảu bài thơ.
Mở đầu đoạn thơ là tác giả đã miêu tả rõ nét nguồn gốc xuất thân của những người lính cách mạng trong kháng chiến chống Pháp:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Họ là những người xuất thân từ nông dân, hình ảnh đó được tác giả mô tả rất chân thực, giản dị mà đầy cao đẹp. Với giọng điệu thủ thỉ, tâm tình như đang kể chuyện, giới thiệu về quê hương của anh và tôi. Họ đều là những người con của vùng quê nghèo khó, nơi “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Dù cuộc sống nơi quê nhà còn nhiều khó khăn, đói nghèo nhưng vì tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà họ sẵn sàng tham gia chiến đấu bảo vệ đất nước. Đó là sự đồng cảnh ngộ, là niềm đồng cảm sâu sắc giữa những người lính ngày đầu gặp mặt.
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Mỗi người một quê hương, một miền đất khác nhau, họ là những người xa lạ của nhau nhưng họ đã về đây đứng chung hàng ngũ, có cùng lí tưởng và mục đích chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Tình đồng chí đã nảy nở và bền chặt trong sự chan hòa, chia sẻ những gian khổ của cuộc sống chiến trường, tác giả đã sử dụng một hình ảnh rất cụ thể, giản dị và gợi cảm để nói lên tình gắn bó đó:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Hoàn cảnh chiến đấu nơi khu rừng Việt Bắc quá khắc nghiệt, đêm trong rừng rét đến thấu xương. Cái chăn quá nhỏ, loay hoay mãi cũng không đủ ấm, chính từ hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn ấy họ đã trở thành tri kỉ với nhau. Những vất vả, khắc nghiệt và nguy nan đã gắn kết họ lại với nhau, khiến cho những người đồng chí trở thành người bạn tâm giao gắn bó. Chính tác giả cũng đã từng là một người lính, nên câu thơ đã chan chứa, tràn đầy tình cảm trìu mến sâu nặng với đồng đội.
Câu thơ cuối cùng, chỉ 2 tiếng đơn giản “Đồng chí” được đặt riêng, tuy ngắn gọn nhưng ngân vang, thiêng liêng. Tình đồng chí không chỉ là chung chí hướng, cùng mục đích mà hơn hết đó là tình tri kỉ đã được đúc kết qua bao gian khổ, khó khăn. Chẳng còn sự ngăn cách giữa những người đồng chí, họ đã trở thành một khối thống nhất, đoàn kết và gắn bó.
Chi với bảy câu thơ đầu của bài “Đồng chí”, Chính Hữu đã sử dụng những hình ảnh chân thực, gợi tả và khái quát cao đã thể hiện được một tình đồng chí chân thực, không phô trương nhưng lại vô cùng lãng mạn và thi vị. Tác giả đã thổi hồn vào bài thơ tình đồng chí tri kỉ, keo sơn và gắn bó, trở thành một âm vang bất diệt trong tâm hồn những người lính cũng như con người Việt Nam.