Đề cương ôn tập văn 8 học kì II

Truong Anh

cảm nghĩ về người tù trong tác phẩm đi đường
mn giúp e vs ( cần gấp ạ)

nguyễn thị thảo ngân
8 tháng 2 2018 lúc 14:50

Đi đường là một trong số những bài thơ tiêu biểu của tập Nhật kí trong tù. Bởi vì cùng với bao nỗi khổ vì đói, rét, ốm, đau,... mà mọi người tù phải chịu, còn một sự hành hạ là bị giải đi hết nhà lao này đến nhà lao khác, thì riêng Bác chịu nỗi đoạ đày. Tuy nhiên, chính trong cảnh phải chịu một thứ hình phạt vô lí và điển hình này, phẩm chất của người tù (là Bác) càng rạng rỡ lên. Bác đã giành được một kỉ lục mới: chiến thắng hoàn cảnh, chiến thắng bản thân và như thế không còn gì đáng sợ nữa. Đó là chiến thắng của ý chí, một ý chí phi thường để con người đáng được gọi là Con Người, Con Người viết hoa theo ý của Go-rơ-ki như một vầng hào quang thần thánh. Bài thơ, nếu theo cách phân đoạn tự nhiên thì gồm có hai phần : hai câu đầu tả cảnh, hai câu cuối tả tình. Nhưng hình thức phân chia này với trường hợp Đi đường hơi có phần máy móc. Phương pháp tả cảnh ngụ tình như tiếng hát bè đôi chạy dọc bài thơ, không có câu nào chỉ là tả cảnh. Tinh đã lẫn vào trong cảnh và qua cả bài thơ tả cảnh ta nhận ra hoàn chỉnh một gương mặt con người, một con người chưa có trong văn học phương Đông, nhất là sự hiện diện ấy trong thể thơ tứ tuyệt: Đi đường mới biết gian lao, Đọc câu thơ tưởng như nhẹ nhõm này ta thấy một sức mạnh ngàn cân. Ý thơ, lời thơ không mới, nhưng nếu đặt nó vào trong một hoàn cảnh đi đường cụ thể của Bác trong hơn một năm bị xiềng xích tù đày, ta mới cảm thông, thấu hiểu. Đi đường ở đây là đi trong mọi điều kiện thời tiết, địa hình. Thời tiết thì mưa nhiều hơn nắng, đường là đường núi nên khấp khểnh, gồ ghề, nhất là lại ra đi từ khi trời còn tối, có khi một, hai giờ sáng đã phải ra đi. Đã có lần sự nguy hiểm không còn là tưởng tượng: "Trượt chân lỡ bước sa vào hố - May nhảy ra ngoài suýt nữa nguy" (Trượt ngã). Một chữ gian lao mà Bác "biết" là như thế. Nó chứa đựng bao nhiêu thử thách, nó đối mặt với ý chí con người mà chỉ có những người "đi đường" mới biết. Bằng thể thơ nhật kí, không một chút đẽo gọt, khoa trương, nhất là trong bức tranh tự hoạ, câu thơ đọc lên có một độ ngân rung từ nỗi niềm có thật. Cái có thật ấy với cách nói đơn sơ không khỏi làm người đọc rùng mình. Ấn tượng gian nan trong nguyên bản được khắc hoạ hơn bản dịch vì nó có một tiết tấu riêng, một cách láy đi láy lại riêng như một tứ thơ tự thoại : Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan Hai chữ "tẩu lộ" (đi đường) như những nốt nhấn đúng nhịp (nhịp 4/3) vừa như một nhận xét vừa như một nghiền ngẫm nghĩ suy chiêm nghiệm bằng chính máu thịt của mình. Sự truyền cảm không cố tình trong câu thơ hàm súc, dồn nén cứ tự nó bật ra mà đâu có nhiều lời. Cái giản dị trong thơ là như vậy, nói ít không phải là không có gì để nói, mà ngược lại: nội dung dồi dào, còn câu chữ cứ như không. Nguyên tắc kiệm lời trong thơ phải chăng là như thế ? Về ý câu thơ này, tục ngữ đã nói "Đi một ngày đàng, học một sàng khôn". Bác cũng đang học, đang "biết" bằng cảnh ngộ của riêng mình, rút ra bài học cho chính mình : có đi đường mới biết việc đi đường là khó. Một chữ tri (biết) đơn giản vậy thôi mà có thể cả đời không học được, ví dụ như cái khổ của người làm đường rất xa lạ với kẻ đi đường: Ngựa xe hành khách thường qua lại, Biết cảm ơn anh được mấy người ! (Phu làm đường) Câu thứ hai trong bài Đi đường như phát triển ý, minh hoạ cho câu thơ thứ nhất : Núi cao rồi lại núi cao trập trùng Cảnh ở đây là cảnh núi, chỉ có núi và núi mà thối. Núi kết hợp với sông trong cổ hoạ là những bức tranh sơn thuỷ hữu tình. Nhưng núi ở đây không nằm trong hộ thống nghệ thuật ấy. Nó trần trụi những gian lao mà người đi đường ngần ngại. Ngần ngại cũng phải. Đây là một chi tiết tâm tình rất thực, thể hiện trong tiết tấu "Trùng san chi ngoại hựu trùng san". Giữa hai chữ trùng san bố trí ở đầu câu và cuối câu như một sự vây bọc bịt bùng là một chữ hựu (lại). Vừa mới vượt được một dãy núi cao nạy chưa kịp nghỉ ngơi, một dãy núi cao khác lại hiện ra, hỏi ai có thể bình tĩnh mà thư thái trong lòng. Một chữ hựu đơn giản vậy thôi mà bao nhiêu chất chứa, nó rất nặng nề trong tâm trí của kẻ chinh nhân. Núi ở đây không đồng nghĩa với cái đẹp, cái hào hùng. Thậm chí, có khi qua một thắng cảnh hẳn hoi mà lòng người chưa yên, cái bứt rứt ấy trong thơ vẫn hiện ra rõ rệt : Quế Lâm không quế, không rừng, Sông sâu thâm thẳm, trập trùng núi cao. (Đến Quế Lâm) Lộ trình trong bài thơ đến câu thứ ba vẫn còn chưa chấm dứt, thậm chí còn phải vượt một đĩnh cao khác hơn mọi thứ "trùng san" : Núi cao lên đến tận cùng, Trong thơ tứ tuyệt truyền thống phương Đông, câu thứ ba là câu chuyển: chuyển cảnh, chuyển tình. Ý thức được vị trí đặc biệt của nó như một thứ cầu nối của mạch thơ, câu thơ nói về núi cao ấy một mặt như là tiếp tục của hai câu trước nó, tiếp tục và phát triển cao hơn. Cảm nhận từ sự lấy đà ấy từ nhịp thơ. Ta chú ý hai chữ trùng san trong hai câu hai và ba đầy dụng ý : Trùng san chi ngoại hựu trùng san ; Trùng san đăng đáo cao phong hậu Mật độ của nó vốn đã dày, lúc này càng dày hơn. Cũng là điệp ngữ nhưng trùng san ở cuối câu hai và trùng san ở đầu câu ba là điệp nối tiếp, lặp vòng. Tiết tấu của thơ không còn chậm rãi, đều đều. Nó khẩn trương hơn, có phần thanh thoát hơn như một cuộc chuẩn bị. Phảng phất trong câu thơ một thứ âm nhạc tâm hồn khác, xốn xang. Vậy cái gì xảy ra sau đó ? Một sự gục ngã ư ? Một chiến thắng ư ? Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non Với người đọc, có thể là một tiếng thở phào nhẹ nhõm, bởi trong lòng cất đi được gánh nặng ngàn cân. Còn với người đi đường thì khác. Chỉ trong một chớp mắt, tình thế đã đổi thay, tâm trạng đã đổi thay, cán cân lực lượng về mặt tinh thần giữa người đi đường và những gian truân trên con đường đèo dốc đã thay đổi theo chiểu ngược lại. vẫn là những điệp trùng núi ấy nhưng bây giờ chúng không đơn điệu nữa mà tươi đẹp hẳn lên. Không vô cảm mà như có hồn. Điệp trùng núi đã trở lên "muôn trùng nước non". Tập hợp tất cả mọi thứ "trùng san" lại, bằng một cái nhìn khác, chúng trở thành "vạn lí dư đồ" lộng lẫy, hoành tráng, mĩ lệ biết bao! Tư thế của người đi đường - từ vị trí nạn nhân đã trở thành chủ nhân - đã tạo cho núi non một gương mặt khác. Người đi đường chủ động đã thu vào đôi mắt tất cả núi non trùng điệp với niềm vui vô hạn. Niềm hạnh phúc dạt dào không gì so sánh được, ấy là niềm vui vì chiến thắng được hoàn cảnh - một hoàn cảnh đầy rẫy những núi cao thử thách, nhất là vì chiến thắng được bản thân. Người tù thi sĩ ấy đến lúc này mới xuất hiện. Dấu hiệu của thi nhân là thổi hồn vào cảnh vật, làm bừng lên một sức sống diệu kì từ một thiên nhiên vô cảm. Niềm hạnh phúc ấy ở đây không tự nhiên mà có. Phải chăng là cái điều tâm niệm của Người khi mới bước vào chốn lao lung chí là một mơ ước, một quyết tâm, nay đã trở thành sự thật : Thân thể ở trong lao, Tinh thần ở ngoài lao ; Muốn nên sự nghiệp lớn, Tinh thần càng phải cao. Quả thật tinh thẩn của người tù đã cao hơn núi cao. Chính Bác đã tự chứng thực cho mình, bằng con người mình. Một sự thể nghiệm lặng lẽ mà kiên trì, đúng là "Kiên trì và nhẫn nại - Không chịu lùi một phân". Chính vì không chịu lùi, dù chỉ một phân, nên Người đã chiến thắng. Như ta biết, trong thơ Hồ Chí Minh ít sử dụng cách nói đại ngôn, tránh cách nói ồn ào. Ấy thế mà bao nhiêu suy nghĩ tinh kết lại từ cách sống của một nhà hiền triết có tầm nhìn rộng, sâu trên nhiều mặt về con người, về cả bản thân. "Tất cả những gì thuộc về con người đều không xa lạ với tôi", một bậc hiền giả, triết nhân nói thế. Bác cũng làm như thế, đã chứng minh cho chân lí đó bàng một bài thơ nhỏ, một nhật kí đi đường.

Nguon : http://hoctotnguvan.net/phan-tich-bai-tho-di-duong-cua-ho-chi-minh-18-1667.htmlĐi đường là một trong số những bài thơ tiêu biểu của tập Nhật kí trong tù. Bởi vì cùng với bao nỗi khổ vì đói, rét, ốm, đau,... mà mọi người tù phải chịu, còn một sự hành hạ là bị giải đi hết nhà lao này đến nhà lao khác, thì riêng Bác chịu nỗi đoạ đày. Tuy nhiên, chính trong cảnh phải chịu một thứ hình phạt vô lí và điển hình này, phẩm chất của người tù (là Bác) càng rạng rỡ lên. Bác đã giành được một kỉ lục mới: chiến thắng hoàn cảnh, chiến thắng bản thân và như thế không còn gì đáng sợ nữa. Đó là chiến thắng của ý chí, một ý chí phi thường để con người đáng được gọi là Con Người, Con Người viết hoa theo ý của Go-rơ-ki như một vầng hào quang thần thánh. Bài thơ, nếu theo cách phân đoạn tự nhiên thì gồm có hai phần : hai câu đầu tả cảnh, hai câu cuối tả tình. Nhưng hình thức phân chia này với trường hợp Đi đường hơi có phần máy móc. Phương pháp tả cảnh ngụ tình như tiếng hát bè đôi chạy dọc bài thơ, không có câu nào chỉ là tả cảnh. Tinh đã lẫn vào trong cảnh và qua cả bài thơ tả cảnh ta nhận ra hoàn chỉnh một gương mặt con người, một con người chưa có trong văn học phương Đông, nhất là sự hiện diện ấy trong thể thơ tứ tuyệt: Đi đường mới biết gian lao, Đọc câu thơ tưởng như nhẹ nhõm này ta thấy một sức mạnh ngàn cân. Ý thơ, lời thơ không mới, nhưng nếu đặt nó vào trong một hoàn cảnh đi đường cụ thể của Bác trong hơn một năm bị xiềng xích tù đày, ta mới cảm thông, thấu hiểu. Đi đường ở đây là đi trong mọi điều kiện thời tiết, địa hình. Thời tiết thì mưa nhiều hơn nắng, đường là đường núi nên khấp khểnh, gồ ghề, nhất là lại ra đi từ khi trời còn tối, có khi một, hai giờ sáng đã phải ra đi. Đã có lần sự nguy hiểm không còn là tưởng tượng: "Trượt chân lỡ bước sa vào hố - May nhảy ra ngoài suýt nữa nguy" (Trượt ngã). Một chữ gian lao mà Bác "biết" là như thế. Nó chứa đựng bao nhiêu thử thách, nó đối mặt với ý chí con người mà chỉ có những người "đi đường" mới biết. Bằng thể thơ nhật kí, không một chút đẽo gọt, khoa trương, nhất là trong bức tranh tự hoạ, câu thơ đọc lên có một độ ngân rung từ nỗi niềm có thật. Cái có thật ấy với cách nói đơn sơ không khỏi làm người đọc rùng mình. Ấn tượng gian nan trong nguyên bản được khắc hoạ hơn bản dịch vì nó có một tiết tấu riêng, một cách láy đi láy lại riêng như một tứ thơ tự thoại : Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan Hai chữ "tẩu lộ" (đi đường) như những nốt nhấn đúng nhịp (nhịp 4/3) vừa như một nhận xét vừa như một nghiền ngẫm nghĩ suy chiêm nghiệm bằng chính máu thịt của mình. Sự truyền cảm không cố tình trong câu thơ hàm súc, dồn nén cứ tự nó bật ra mà đâu có nhiều lời. Cái giản dị trong thơ là như vậy, nói ít không phải là không có gì để nói, mà ngược lại: nội dung dồi dào, còn câu chữ cứ như không. Nguyên tắc kiệm lời trong thơ phải chăng là như thế ? Về ý câu thơ này, tục ngữ đã nói "Đi một ngày đàng, học một sàng khôn". Bác cũng đang học, đang "biết" bằng cảnh ngộ của riêng mình, rút ra bài học cho chính mình : có đi đường mới biết việc đi đường là khó. Một chữ tri (biết) đơn giản vậy thôi mà có thể cả đời không học được, ví dụ như cái khổ của người làm đường rất xa lạ với kẻ đi đường: Ngựa xe hành khách thường qua lại, Biết cảm ơn anh được mấy người ! (Phu làm đường) Câu thứ hai trong bài Đi đường như phát triển ý, minh hoạ cho câu thơ thứ nhất : Núi cao rồi lại núi cao trập trùng Cảnh ở đây là cảnh núi, chỉ có núi và núi mà thối. Núi kết hợp với sông trong cổ hoạ là những bức tranh sơn thuỷ hữu tình. Nhưng núi ở đây không nằm trong hộ thống nghệ thuật ấy. Nó trần trụi những gian lao mà người đi đường ngần ngại. Ngần ngại cũng phải. Đây là một chi tiết tâm tình rất thực, thể hiện trong tiết tấu "Trùng san chi ngoại hựu trùng san". Giữa hai chữ trùng san bố trí ở đầu câu và cuối câu như một sự vây bọc bịt bùng là một chữ hựu (lại). Vừa mới vượt được một dãy núi cao nạy chưa kịp nghỉ ngơi, một dãy núi cao khác lại hiện ra, hỏi ai có thể bình tĩnh mà thư thái trong lòng. Một chữ hựu đơn giản vậy thôi mà bao nhiêu chất chứa, nó rất nặng nề trong tâm trí của kẻ chinh nhân. Núi ở đây không đồng nghĩa với cái đẹp, cái hào hùng. Thậm chí, có khi qua một thắng cảnh hẳn hoi mà lòng người chưa yên, cái bứt rứt ấy trong thơ vẫn hiện ra rõ rệt : Quế Lâm không quế, không rừng, Sông sâu thâm thẳm, trập trùng núi cao. (Đến Quế Lâm) Lộ trình trong bài thơ đến câu thứ ba vẫn còn chưa chấm dứt, thậm chí còn phải vượt một đĩnh cao khác hơn mọi thứ "trùng san" : Núi cao lên đến tận cùng, Trong thơ tứ tuyệt truyền thống phương Đông, câu thứ ba là câu chuyển: chuyển cảnh, chuyển tình. Ý thức được vị trí đặc biệt của nó như một thứ cầu nối của mạch thơ, câu thơ nói về núi cao ấy một mặt như là tiếp tục của hai câu trước nó, tiếp tục và phát triển cao hơn. Cảm nhận từ sự lấy đà ấy từ nhịp thơ. Ta chú ý hai chữ trùng san trong hai câu hai và ba đầy dụng ý : Trùng san chi ngoại hựu trùng san ; Trùng san đăng đáo cao phong hậu Mật độ của nó vốn đã dày, lúc này càng dày hơn. Cũng là điệp ngữ nhưng trùng san ở cuối câu hai và trùng san ở đầu câu ba là điệp nối tiếp, lặp vòng. Tiết tấu của thơ không còn chậm rãi, đều đều. Nó khẩn trương hơn, có phần thanh thoát hơn như một cuộc chuẩn bị. Phảng phất trong câu thơ một thứ âm nhạc tâm hồn khác, xốn xang. Vậy cái gì xảy ra sau đó ? Một sự gục ngã ư ? Một chiến thắng ư ? Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non Với người đọc, có thể là một tiếng thở phào nhẹ nhõm, bởi trong lòng cất đi được gánh nặng ngàn cân. Còn với người đi đường thì khác. Chỉ trong một chớp mắt, tình thế đã đổi thay, tâm trạng đã đổi thay, cán cân lực lượng về mặt tinh thần giữa người đi đường và những gian truân trên con đường đèo dốc đã thay đổi theo chiểu ngược lại. vẫn là những điệp trùng núi ấy nhưng bây giờ chúng không đơn điệu nữa mà tươi đẹp hẳn lên. Không vô cảm mà như có hồn. Điệp trùng núi đã trở lên "muôn trùng nước non". Tập hợp tất cả mọi thứ "trùng san" lại, bằng một cái nhìn khác, chúng trở thành "vạn lí dư đồ" lộng lẫy, hoành tráng, mĩ lệ biết bao! Tư thế của người đi đường - từ vị trí nạn nhân đã trở thành chủ nhân - đã tạo cho núi non một gương mặt khác. Người đi đường chủ động đã thu vào đôi mắt tất cả núi non trùng điệp với niềm vui vô hạn. Niềm hạnh phúc dạt dào không gì so sánh được, ấy là niềm vui vì chiến thắng được hoàn cảnh - một hoàn cảnh đầy rẫy những núi cao thử thách, nhất là vì chiến thắng được bản thân. Người tù thi sĩ ấy đến lúc này mới xuất hiện. Dấu hiệu của thi nhân là thổi hồn vào cảnh vật, làm bừng lên một sức sống diệu kì từ một thiên nhiên vô cảm. Niềm hạnh phúc ấy ở đây không tự nhiên mà có. Phải chăng là cái điều tâm niệm của Người khi mới bước vào chốn lao lung chí là một mơ ước, một quyết tâm, nay đã trở thành sự thật : Thân thể ở trong lao, Tinh thần ở ngoài lao ; Muốn nên sự nghiệp lớn, Tinh thần càng phải cao. Quả thật tinh thẩn của người tù đã cao hơn núi cao. Chính Bác đã tự chứng thực cho mình, bằng con người mình. Một sự thể nghiệm lặng lẽ mà kiên trì, đúng là "Kiên trì và nhẫn nại - Không chịu lùi một phân". Chính vì không chịu lùi, dù chỉ một phân, nên Người đã chiến thắng. Như ta biết, trong thơ Hồ Chí Minh ít sử dụng cách nói đại ngôn, tránh cách nói ồn ào. Ấy thế mà bao nhiêu suy nghĩ tinh kết lại từ cách sống của một nhà hiền triết có tầm nhìn rộng, sâu trên nhiều mặt về con người, về cả bản thân. "Tất cả những gì thuộc về con người đều không xa lạ với tôi", một bậc hiền giả, triết nhân nói thế. Bác cũng làm như thế, đã chứng minh cho chân lí đó bàng một bài thơ nhỏ, một nhật kí đi đường.


Nguon : http://hoctotnguvan.net/phan-tich-bai-tho-di-duong-cua-ho-chi-minh-18-1667.html

Bình luận (1)
nguyễn thị thảo ngân
8 tháng 2 2018 lúc 21:31

"Nhật kí trong tù" có nhiều bài thơ viết về đề tài "đi đường" như "Thế lộ nan", "Tẩu lộ", "Lộ thượng",... Đó là những vần thơ giàu chất trí tuệ, mang ý vị triết lí, được đúc kết từ máu và nước mắt:

"Núi cao gặp hổ mà vô sự,

Đường phẳng gặp người bị tổng lao".

"Xử thế từ xưa không phải dễ,

Mà nay, xứ thế khó khăn hơn".

(Đường đời hiểm trở)

Bài thơ "Đi đường" cho ta bài học về đường đời nhiều khó khăn nguy hiểm, bài học về quyết tâm, vượt khó, vươn lên giành thắng lợi trên con đường đời. Mỗi cuộc đời là một trăm năm, ai cũng phải một trăm năm đi đường. Có con đường lao động mưu sinh, có con đường công danh lập nghiệp. Tuổi trẻ còn có con đường học tập. Bài thơ "Đi đường" trở thành hành trang cho mỗi chúng ta sức mạnh để vươn lên thực hiện ước mơ của mình.

Bình luận (2)
๖ۣۜ ghét๖ۣۜ
10 tháng 2 2018 lúc 10:08

"Đi đường" là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt số 30 trong "Nhật kí trong tù". Lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giải lui giải tới qua nhiều nhà tù trên tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trải qua bao cay đắng thử thách nặng nề, Người gửi gắm bao suy nghĩ, cảm xúc của minh vào bài thơ “Tẩu lộ" này. Nam Trân đã dịch thành thơ lục bát:

"Đi đường mới biết gian lao,

Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;

Núi cao lên đến tận cùng,

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non".

Bài thơ mang hàm nghĩa. Tác giả mượn chuyện đi đường để nêu lên cảm nhận đường đời vô cùng khó khăn, nguy hiểm; phải có quyết tâm cao, nghị lực mới chiến thắng thử thách, mới giành được thắng lợi vẻ vang.

1. Hai câu đầu trong bài thơ chữ Hán có nghĩa là:

"Có đi đường mới biết đường đi khó,

Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác".

Câu thứ nhất nêu lên một kinh nghiệm, một chiêm nghiệm sống ở đời, đó là chuyện đi đường và bài học đi đường khó. Với nhà thơ, con đường được nói tới còn là con đường cách mạng vô cùng nguy hiểm: "Là gươm kề tận cổ, súng kề tai - Là thân sống chỉ coi còn một nửa" ("Trâng trối - Tố Hữu). Hình ảnh con đường được miêu tả bằng điệp ngữ "trùng san" đã làm nổi bật khó khăn, thử thách chồng chất, người đi đường luôn luôn đối diện với bao gian khổ. Câu thơ chữ Hán không hề có chữ "cao"', dịch giả đã thêm vào, người đọc thơ cần biết:

"Đi đường mới biết gian lao,

Núi cao rồi lại núi cao trập trùng".

Hai câu thơ đầu về mặt văn chương chữ nghĩa không có gì mới. Ý niệm: "hành lộ nan" đã xuất hiện trong cổ văn hơn nghìn năm về trước. Thế nhưng vần thơ Hồ Chí Minh hay và sâu sắc ở tính nghiệm sinh; nó cho thấy trải nghiệm của một con người "ba mươi năm ấy chân không nghỉ" (Tố Hữu), để tìm đường cứu nước. Con đường mà người chiến sĩ ấy đã vượt qua đâu chỉ có "Núi cao rồi lại núi cao trập trùng" mà còn đầy phong ba bão táp, trải dài trải rộng khắp bốn biển năm châu:

"Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể

Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi

Những đất tự do, những trời nô lệ

Những con đường cách mạng đang tìm đi...".

(Người đi tìm hình của nước)

Người xưa có nhắc: "Đọc sách người ấy, đọc thơ người ấy, phải biết con người ấy" là thế.

2. Hai câu cuối cấu trúc theo mối quan hệ điều kiện - hệ quả. Khi đã chiếm lĩnh được đỉnh cao chót vót (cao phong hậu) thì muôn dặm nước non (vạn lí dư đồ) thu cả vào tầm mắt:

"Núi cao lên đến tận cùng,

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non".

Muốn vượt qua các lớp núi lên đỉnh cao chót vót thì phải có quyết tâm và nghị lực lớn. Chỉ có thế mới giành được thắng lợi vẻ vang, thu được kết quả tốt đẹp. Câu thơ Hồ Chí Minh hàm chứa bài học quyết tâm vượt khó, nêu cao ý chí và nghị lực trong cuộc sống để giành thắng lợi. Bài học "Đi đường" thật là vô giá đối với bất cứ ai.

3. "Nhật kí trong tù" có nhiều bài thơ viết về đề tài "đi đường" như "Thế lộ nan", "Tẩu lộ", "Lộ thượng",... Đó là những vần thơ giàu chất trí tuệ, mang ý vị triết lí, được đúc kết từ máu và nước mắt:

"Núi cao gặp hổ mà vô sự,

Đường phẳng gặp người bị tổng lao".

"Xử thế từ xưa không phải dễ,

Mà nay, xứ thế khó khăn hơn".

(Đường đời hiểm trở)

Bài thơ "Đi đường" cho ta bài học về đường đời nhiều khó khăn nguy hiểm, bài học về quyết tâm, vượt khó, vươn lên giành thắng lợi trên con đường đời. Mỗi cuộc đời là một trăm năm, ai cũng phải một trăm năm đi đường. Có con đường lao động mưu sinh, có con đường công danh lập nghiệp. Tuổi trẻ còn có con đường học tập. Bài thơ "Đi đường" trở thành hành trang cho mỗi chúng ta sức mạnh để vươn lên thực hiện ước mơ của mình.

Bình luận (0)

Các câu hỏi tương tự
Khanh Huyen Nguyen
Xem chi tiết
Hồng Ngọc
Xem chi tiết
Hoàng Thùy Linh
Xem chi tiết
Lương Khánh Lợi
Xem chi tiết
Đinh Cẩm Tú
Xem chi tiết
H T T
Xem chi tiết
Nguyễn Phương Anh
Xem chi tiết
La Nguyen
Xem chi tiết
Hellohi
Xem chi tiết