Trong nhóm bạn lớp 5C của em gồm có Hiền, Thảo, Vân, Loan, Phương, các bạn trong lớp thường gọi đùa là nhóm “ngũ sắc”. Có thể nói em với Thảo là thân nhau nhất, bởi Thảo học chung với em từ năm lớp Một và cũng là người bạn được mọi người trong lớp quý mến.
Hàng ngày đến trường, Thảo luôn mặc bộ đồng phục theo quy định: váy xanh, áo sơ mi trắng, trên ngực luôn đính phù hiệu màu xanh với dòng chữ thêu rất bay bướm: Trần Linh Thảo 5C. Năm nay, Thảo mười một tuổi, sinh sau em hai tháng. Thảo có vóc dáng dong dỏng, không gầy và cũng không mập, làn da trắng mịn, khuôn mặt bầu bầu, sáng sủa, toát lên vẻ tinh nghịch, vầng trán cao thể hiện sự thông minh bướng bỉnh. Thảo có mái tóc tơ mịn màng luôn cắt ngắn đến bờ vai. Ngoài cái dáng vẻ xinh xinh dễ thương ấy, Thảo còn có những nét riêng biệt không nhầm lẫn với ai được. Đôi mắt Thảo vừa to, vừa trong xanh lại hơi sâu một chút nên trông Thảo như một cô bé lai Tây. Cái mũi thì cao, thẳng được gọi là mũi sọc dừa càng tôn thêm vẻ yêu kiều của một cô bé sắp lớn. Đôi chân mày hình bán nguyệt đậm, sắc sảo như lúc nào cũng được tô điểm, ôm gọn đôi cặp mắt trong xanh, rất đỗi thùy mị nết na. Thảo có cái nhìn hiền dịu với nụ cười luôn nở trên môi nên rất dễ gây thiện cảm với người đối diện.
Trong quan hệ với bạn bè, Thảo nhiệt tình giúp đỡ nhất là đối với những bạn học trung bình hay yếu kém mà không bao giờ tỏ thái độ kênh kiệu làm cho bạn phật lòng. Vì vậy, các bạn trong lớp 5C ai cũng quý mến Thảo. Đối với thầy cô, Thảo luôn lễ phép, kính trọng. Vói cha mẹ, Thảo là đứa con ngoan hiền, hiếu thảo. Bạn học rất chăm chỉ và luôn là người đứng đầu lớp. Học đều tất cả các môn nhưng Thảo thích nhất vẫn là môn Tiếng Việt. Lúc nào bạn cũng tỏ ra bình tĩnh khi cô hỏi bài. Được cô khen, mặt Thảo thường đỏ bừng, có vẻ e thẹn. Tuy học giỏi được thầy cô và các bạn quý mến nhưng chưa bao giờ Thảo tỏ ra kiêu ngạo, ở nhà, Thảo là một đứa con ngoan hiền, biết giúp đỡ mẹ cha làm những công việc vặt, đỡ đần cho cha mẹ nghỉ ngơi.
Cuối năm lớp Bốn, Thảo đạt danh hiệu học sinh xuất sắc. Cả lớp em, ai cũng quý mến Thảo, quý những đức tính ham học, lễ phép, biết giúp đỡ bạn bè, và sống chân thành, giản dị. Thảo thật xứng đáng với danh hiệu “Cháu ngoan Bác Hồ”.
Nam quốc sơn hà là một trong những áng văn chương kiệt tác của văn học thời Lí- Trần. Nó là tác phẩm kết tinh được hào khí thời đại, cảm xúc của muôn trái tim, vì thế, nó tiêu biểu cho tinh thần độc lập, khí phách anh hùng và khát vọng lớn lao của dân tộc trong buổi đầu xây dựng một quốc gia phong kiến độc lập.
Sông núi nước Nam là một bài thơ chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Nguyên tác như sau:
Nam quốc sơn hà
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch thành:
Sông núi nước Nam
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng bay nhất định phải tan vỡ.
(Theo Lê Thước – Nam Trân dịch)
Tương truyền rằng, trong cuộc kháng chiến chống Tống đời nhà Lí, một đêm tối trên phòng tuyến Như Nguyệt, từ trong đền thờ hai thần Trương Hồng và Trương Hát (hai vị tướng giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt), bài thơ đã ngân vang lên (Vì thế người ta gọi bài thơ này là thơ thần). Nhưng dù là do thần linh hay con người đọc lên thì bài thơ vẫn là khát vọng và khí phách Đại Việt.
Ý tưởng bảo vệ độc lập, kiên quyết chống giặc ngoại xâm được diễn đạt trực tiếp qua một mạch lập luận khá chặt chẽ và biện chứng. Mở đầu bài thơ là lời tuyên bố đanh thép về chủ quyền đất nước:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Câu thơ 7 tiếng tạo thành hai vế đối xứng nhau nhịp nhàng: Nam quốc sơn hà – Nam đế cư. Đặc biệt, cách dùng chữ của tác giả bài thư thể hiện rất “đắt” ý tưởng và cảm xúc thơ. Hai từ Nam quốc và Nam đế có thể coi là nhãn tự (mắt thần) của câu thơ và của cả bài thơ. Trong tư tưởng của bọn cầm quyền phong kiến Trung Quốc xưa nay-chỉ có Bắc đế, chứ không thế có Nam đế hoàng đế Trung Hoa là vị hoàng đế duy nhất của thiên hạ, thay trời trị vì thiên hạ. Vì thế, khi xâm lược nước Nam, áp đặt được ách thống trị, chúng đã ngang nhiên trắng trợn biến nước ta thành quận, huyện của Trung Quốc. Nền độc lập mà chúng ta giành lại được hôm nay thấm không ít máu của cha ông ta đã đổ suốt hơn một ngàn năm. Và nay nền độc lập ấy vẫn đang bị đe doạ bởi tư tưởng ngông cuồng kia.
Trở lại với nội dung tư tưởng bao hàm qua ngôn từ của câu thơ. Nam quốc không chỉ có nghĩa là nước Nam, mà Nam quốc còn là vị thế của nước Nam ta, đất nước ấy dù nhỏ bé nhưng tồn tại độc lập, sánh vai ngang hàng với một cường quốc lớn ở phương Bắc như Trung Quốc. Hơn nữa, đất nước ấy lại có chủ quyền, có một vị hoàng đế (Nam đế). Vị hoàng đế nước Nam cũng có uy quyền không kém gì các hoàng đế Trung Hoa, cũng là một bậc đế vương, do đấng tối cao phong tước, chia cho quyền cai quản một vùng đất riêng mà lập nên giang sơn xã tắc của mình:
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Sông núi nước Nam là của người Nam. Đó là sự thật hiển nhiên. Không ai có quyền phủ định? Bởi sự phân định núi sông, bờ cõi đâu phải là ý muốn chủ quan của một người hay một số người, mà do “Trời” định đoạt. Bản đồ ranh giới lãnh thổ của các quốc gia đã in dấu ấn trong sách trời: Ai có thể thay đổi được?!
Tác giả bài thơ đã đưa ra những lí lẽ thật xác đáng. Qua cách lập luận, nổi lên một quan niệm, một chân lí thiêng liêng và cao cả: chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt.
Vẫn những lí lẽ đanh thép ấy, tác giả khẳng định tiếp:
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Thật là một khí phách kiên cường! Thay mặt cả dân tộc, nhà thơ đã lớn tiếng cảnh cáo bọn giặc xâm lược: Chúng bay phạm vào bờ cõi này, tức là chúng bay đã phạm vào sách trời; mà phạm vào sách trời, tức là làm trái với đạo lí trở thành kẻ đại nghịch vô đạo (nghịch lỗ), lẽ nào Trời đất dung tha. Mặt khác chúng bay phạm vào bờ cõi này tức là phạm vào chủ quyền thiêng liêng của một dân tộc, nhất là dân tộc đó lại là một dân tộc có bản lĩnh kiên cường, có ý chí độc lập mạnh mẽ, vậy thì, sự thất bại sẽ là điều không thể tránh khỏi, thậm chí còn bị đánh cho tơi bời thủ bại hư.
Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam lại có một khí phách hào hùng như thế! Cảm xúc thơ thật mãnh liệt, tạo nên chất trữ tình chính luận- một đặc điểm của thơ ca thời Lí – Trần, khiến người đọc rưng rưng!
Và ngàn đời sau, bài thơ vẫn là hồn thiêng sông núi vọng về.