Đề cương ôn tập văn 8 học kì II

Đặng Hoàng Long

anh chị nào giỏi văn giúp em được không em đang cần để ôn học kì II ạ

tại sao nói văn bản chiếu dời đô(Lý Công Uẩn)nó thể hiện sự anh minh sự nhìn xa trông rộng của Lý Công Uẩn.Em hãy làm sáng tỏ nhận định đó

Yuuki Hina
30 tháng 4 2018 lúc 21:07

Qua tác phẩm Chiếu dời đô, ta thấy rằng Lí Công Uẩn là một vị vua yêu nước. Về Lí Công Uẩn, theo lịch sử ghi chép lại thì ông là một tướng tài dưới thời nhà Lê. Ông thông minh, nhân ái túc trí đa mưu, lập được nhiều chiến công cho đất nước. Vì thế khi triều đại nhà Lê mục nát và sụp đổ, ông đã được triều thần và nhân dân tôn lên làm vua, lập thành triều đại nhà Lý. Vốn dĩ nhà vua có lòng yêu nước thương dân nên ông vô cùng đau xót trước cảnh đất nước nghèo nàn, nhân dân đói khổ. Hơn ai hết ông đã nhìn thấy nguyên nhân một phần là do hai nhà Đinh, Lê cứ theo ý mình đóng đô ở Hoa Lư, nơi có địa hình núi non hiểm trở, dựa vào thế núi non đó để bảo toàn quyền lợi của triều đại mà không nghĩ đến việc xây dựng và phát triền đất nước, chăm lo hạnh phúc cho muôn dân. Do vậy, ông đã biết học tập theo các vị trước đã dời đô như nhà Thương, nhà Chu. Song, ông đúng là người có tầm nhìn xa trông rộng nên nhà vua đã thấy được "Thành Đại La- kinh đô củ của Cao Vương: ở vào nơi trung tâm đất trời, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đứng ngôi nam bắc đông tây, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi phải chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi". Rõ ràng trong lập luận của tác giả, ta không hề nghe đến quyền lợi của một cá nhân nào mà chỉ vì trăm họ. Một nơi lý tưởng để đóng đô, thuận lợi cho việc phát triển kinh tế xã hội mà đến tận bây giờ mới được Lí Công Uẩn tìm ra, đây chẳng phải là điều khẳng định thêm cái tài bên cạnh cái đức của nhà vua hay sao? Thông thường, một bài chiếu được dùng để ban bố mệnh lệnh và được toàn dân đón nhận một cách trang trọng nhưng ở đây bài chiếu này không chỉ đơn thuần là ban bố mệnh lệnh của một nhà vua cao quý cho triều thần và nhân dân phải răm rắp thực hiện theo mà nó còn là lời trao đổi, bàn bạc với quần thần cùng cảm xúc chân thành. Câu cuối cùng của bài chiếu như một lời tâm sự, như một lời nói của những người ngang hàng: "Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?" Quần thần và nhân dấn nghe bài chiếu này không hề có tâm trạng hoang mang hay cảm giác sợ hãi bởi lẽ nó thấu tình đạt lí, phù hợp với ý nguyện của nhân dân, ngôn từ lắng đọng, cô đúc, có sức thuyết phục lâu bến. Người nghe như thấy được vận mệnh lịch sử, tương lai con cháu sau này nhờ việc dời đô. Quả thật Lí Công Uẩn là một vị vua thông minh, sáng suốt, anh minh.

Đạt Trần
30 tháng 4 2018 lúc 21:25

2 ý chính

1. Việc thay đổi kinh đô đối với triều đại nhà Lí là một tất yếu khách quan

Việc thay đổi ấy có tính chất quy luật, không thể khư khư bảo thủ chủ quan “theo ý riêng mình”. Cái ý khách quan ấy thể hiện ở cả hai yếu tố : “trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân“. Cả hai yếu tố hội tụ được lợi ích lâu dài : chỉ có “đóng đô ở nơi trung tâm” mới có khả năng “mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu” lâu dài. Mục đích của việc dời đô là như thế. Song nhận thức được nó hay không còn tuỳ thuộc vào nhãn quan, tầm nhìn chật hẹp hay xa rộng của mỗi thời, của mỗi triều đại.

Bắt chước người xưa mà không nệ cổ, ấy là một cách nghĩ phóng khoáng, canh tân. Sự lựa chọn nên hay không nên, lập luận của tác giả dựa vào thực tế xưa và nay. Sự đối lập giữa hai cách hành động, hai cách nghĩ khác nhau, tự nó bật lên chân lí : xưa không hẳn đã là cổ hủ, nay tuy là mới, nhưng chưa hẳn đã thức thời. Vậy xưa và nay, chẳng cần phân biệt, cứ đúng mà làm “nếu thấy thuận tiện thì thay đổi“. Lấy cái đúng của hôm nay mà soi vào quá khứ, Lí Công Uẩn đã bắt gặp cách nghĩ của người xưa. Kế tục truyền thống, phát huy truyền thống cần có một sự sáng suốt sàng lọc, đó là một phương châm, phương hướng nên làm. Tất cả những sự nên hay không nên, lập luận diễn ra ba bước : hành động dời đô hay “đóng yên đô thành” một chỗ, mục đích của việc dời đô và kết quả của việc dời đô. Xưa, nhà Thương, đến đời vua thứ mười bảy (Bàn Canh) có đến năm lần dời đô. Tiếp nối nhà Thương, đến Chu Thành Vương cũng làm như thế tính đến ba lần. Những quyết định táo bạo ấy phải đâu là hiếm hoi, chỉ làm trong mông muội ? Mục đích và kết quả của việc dời đô ấy đã rất nhỡn tiền, mắt thấy tai nghe, không ai không công nhận. Vì đã được thừa nhận, tác giả chỉ nhắc qua “Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh”. Không tán thành cách làm “Không noi theo dấu cũ của Thương, Chu” của hai nhà Đinh, Lê, lập luận có tính chất phê phán chỉ cồn hai bước của tư duy được nhấn mạnh nhiều hơn. Cái lỗi của hai nhà Đinh, Lê có đến bốn điều cần phủ nhận là “lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yến đô thành ở nơi đây”. Sức thuyết phục của lối văn tranh luận không phải ở sự dài lời. Bốn vế đầu của câu văn như những mũi tên trí tuệ bắn ra nhằm vào một cái đích : ấy là sự lẽ ra phải đổi thay của hai nhà Đinh, Lê trong hiện tại. Hậu quả của nó, thông qua phép đối, dưới hình thức biền văn, sự hô ứng thật muôn lần sáng tỏ được thể nghiệm tức thời bằng bốn vế tiếp theo đầy thuyết phục “khỉến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, muôn vật không được thích nghi”.

2. Thành Đại La là một nơi định đô lí tưởng

Ngay khi nhìn ngắm vào hai tấm gương phải trái khác nhau, tác giả đã lộ rõ ý mình : không thể không thay đổi cách nghĩ, cách làm. Nhưng tỏ ra tinh tế, khiêm nhường, tác giả chỉ giãi bày cách cảm : “Trẫm rất đau xót về việc đó“, tuy vậy không phải không ngầm ý quyết đoán, một quyết đoán không gì cưỡng được vì nó hợp với mệnh trời : “không thể không dời đổi”. Phủ định một điều ? phủ định chính là sự khẳng định. Ấy là chân lí của tư duy.

Ý tưởng của nhà vua trong việc định đô ở Đại La thuyết phục người nghe ở cả hai yếu tố : lí lẽ và tình cảm, nội dung và hình thức diễn đạt, trình bày về lí lẽ, lợi thế của Đại La được trình bày rất kĩ lưỡng với một số lượng câu không ít, nó như nốt nhấn của bài văn. Bốn câu văn đầy trọng lượng này lại được nhân lên gấp đôi bởi mỗi câu có đến hai vế, mỗi vế lại có sức tác động riêng bổ sung cho nhau, thật là tầng tầng lớp lớp. Nội dung của đoạn văn dựa vào thuyết phong thuỷ mà phát hiện ra vẻ đẹp muôn mặt của Đại La : nào là vị thế địa lí, vị thế văn hoá, đầu mối giao lưu, điều kiện dân cư và sự tốt tươi cho muôn vật. Đại La như một viên ngọc, nếu có ánh sáng của nhận thức soi vào, nó lấp lánh lên bao điều ngưỡng mộ. Tinh cảm của người viết dù không muốn lộ ra vẫn ngập tràn trong tiết tấu, nhịp điệu, trong từng chữ, từng câu “lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu” như thế. Yêu mến Đại La là xuất phát từ ý đồ “mưu toan nghiệp lớn“, là một tầm nhìn xa rộng đến mai sau, vì lợi ích của muôn dân trăm họ. Nội dung đầy chất trí tuệ và tâm hồn ấy được diễn tả bằng hình thức biền văn chuẩn mực. Hình thức này đã góp phần không nhỏ vào hiệu quả của đoạn vãn. Thử nêu một ví dụ về phép đối, chẳng hạn, đối ý, đối lời, đối thanh, đối nhịp. Ở đây, tác giả đã khá dụng công, ví dụ : ngay ở câu đầu hai vế : “Ở vào nơi trung tâm trời đất ; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi“, mỗi vế có bảy chữ, bằng trắc thay nhau thật du dương trầm bổng. Ây là chưa nói xen giữa những câu dài là những câu ngắn có tác dụng bắc cầu cho câu dài tiếp nối cái mạch vãn đầy hứng khởi trào dâng. Chẳng hạn như câu : “Địa thế rộng mà bằng ; đất đai cao mà thoáng“, sau đó tiết tấu dãn ra : “Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt ; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi“. Để sơ kết, cũng là để nhấn mạnh về vị thế tuyệt vời của thế đất Đại La, tác giả sử dụng nhịp văn dồn dập với những cách tôn vinh không đơn điệu : đã là nơi “thắng địa”, “chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương” còn là “nơi kinh đô bậc nhất“,… Lập luận và lí lẽ đến mức ấy thì câu kết của bài dù chỉ là bỏ ngỏ (“Các khanh nghĩ thế nào ?”) tưởng như chưa có hồi âm, nhưng thực ra thì đáp số đã nằm ngay trong đó.

Sự kiện dời đồ tuy trong sử sách là một công việc bình thường, tuỳ thuộc vào yếu tố khách quan (ý trời, vận nước), vào yếu tố chủ quan (tầm nhìn của người chèo lái), nhưng ở vào thời điểm Lí Công Uẩn dời đô thì đó là một cái mốc, một bước ngoặt lớn lao, một sự kiện phi thường. Phải có tiềm lực (vật chất, tinh thần đến một mức mà thời Đinh, Lê chưa có), phải có một khát vọng, một ý chí, quốc gia đó mới đủ sức vươn lên bằng cách thoát ra cái vỏ bọc giam mình trong cái thế giậm chân tại chỗ. Nếu trong truyền thuyết có một Phù Đổng vươn vai đánh giặc giữ nước thì hành động của Lí Công uẩn chẳng phải là hành động đó hay sao, trong sự nghiệp dựng nước thời bình ? Sự nghiệp ấy và bài văn ấy như hai hiện tượng sóng đôi đã đi vào lịch sử và văn chương như một sự kế tục và khơi nguồn để con sông “đỏ nặng phù sa” của lòng yêu nước thêm sâu, thêm rộng.

Minh Phúc Võ
28 tháng 3 2022 lúc 18:27

2 ý chính

1. Việc thay đổi kinh đô đối với triều đại nhà Lí là một tất yếu khách quan

Việc thay đổi ấy có tính chất quy luật, không thể khư khư bảo thủ chủ quan “theo ý riêng mình”. Cái ý khách quan ấy thể hiện ở cả hai yếu tố : “trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân“. Cả hai yếu tố hội tụ được lợi ích lâu dài : chỉ có “đóng đô ở nơi trung tâm” mới có khả năng “mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu” lâu dài. Mục đích của việc dời đô là như thế. Song nhận thức được nó hay không còn tuỳ thuộc vào nhãn quan, tầm nhìn chật hẹp hay xa rộng của mỗi thời, của mỗi triều đại.

Bắt chước người xưa mà không nệ cổ, ấy là một cách nghĩ phóng khoáng, canh tân. Sự lựa chọn nên hay không nên, lập luận của tác giả dựa vào thực tế xưa và nay. Sự đối lập giữa hai cách hành động, hai cách nghĩ khác nhau, tự nó bật lên chân lí : xưa không hẳn đã là cổ hủ, nay tuy là mới, nhưng chưa hẳn đã thức thời. Vậy xưa và nay, chẳng cần phân biệt, cứ đúng mà làm “nếu thấy thuận tiện thì thay đổi“. Lấy cái đúng của hôm nay mà soi vào quá khứ, Lí Công Uẩn đã bắt gặp cách nghĩ của người xưa. Kế tục truyền thống, phát huy truyền thống cần có một sự sáng suốt sàng lọc, đó là một phương châm, phương hướng nên làm. Tất cả những sự nên hay không nên, lập luận diễn ra ba bước : hành động dời đô hay “đóng yên đô thành” một chỗ, mục đích của việc dời đô và kết quả của việc dời đô. Xưa, nhà Thương, đến đời vua thứ mười bảy (Bàn Canh) có đến năm lần dời đô. Tiếp nối nhà Thương, đến Chu Thành Vương cũng làm như thế tính đến ba lần. Những quyết định táo bạo ấy phải đâu là hiếm hoi, chỉ làm trong mông muội ? Mục đích và kết quả của việc dời đô ấy đã rất nhỡn tiền, mắt thấy tai nghe, không ai không công nhận. Vì đã được thừa nhận, tác giả chỉ nhắc qua “Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh”. Không tán thành cách làm “Không noi theo dấu cũ của Thương, Chu” của hai nhà Đinh, Lê, lập luận có tính chất phê phán chỉ cồn hai bước của tư duy được nhấn mạnh nhiều hơn. Cái lỗi của hai nhà Đinh, Lê có đến bốn điều cần phủ nhận là “lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yến đô thành ở nơi đây”. Sức thuyết phục của lối văn tranh luận không phải ở sự dài lời. Bốn vế đầu của câu văn như những mũi tên trí tuệ bắn ra nhằm vào một cái đích : ấy là sự lẽ ra phải đổi thay của hai nhà Đinh, Lê trong hiện tại. Hậu quả của nó, thông qua phép đối, dưới hình thức biền văn, sự hô ứng thật muôn lần sáng tỏ được thể nghiệm tức thời bằng bốn vế tiếp theo đầy thuyết phục “khỉến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, muôn vật không được thích nghi”.

2. Thành Đại La là một nơi định đô lí tưởng

Ngay khi nhìn ngắm vào hai tấm gương phải trái khác nhau, tác giả đã lộ rõ ý mình : không thể không thay đổi cách nghĩ, cách làm. Nhưng tỏ ra tinh tế, khiêm nhường, tác giả chỉ giãi bày cách cảm : “Trẫm rất đau xót về việc đó“, tuy vậy không phải không ngầm ý quyết đoán, một quyết đoán không gì cưỡng được vì nó hợp với mệnh trời : “không thể không dời đổi”. Phủ định một điều ? phủ định chính là sự khẳng định. Ấy là chân lí của tư duy.

Ý tưởng của nhà vua trong việc định đô ở Đại La thuyết phục người nghe ở cả hai yếu tố : lí lẽ và tình cảm, nội dung và hình thức diễn đạt, trình bày về lí lẽ, lợi thế của Đại La được trình bày rất kĩ lưỡng với một số lượng câu không ít, nó như nốt nhấn của bài văn. Bốn câu văn đầy trọng lượng này lại được nhân lên gấp đôi bởi mỗi câu có đến hai vế, mỗi vế lại có sức tác động riêng bổ sung cho nhau, thật là tầng tầng lớp lớp. Nội dung của đoạn văn dựa vào thuyết phong thuỷ mà phát hiện ra vẻ đẹp muôn mặt của Đại La : nào là vị thế địa lí, vị thế văn hoá, đầu mối giao lưu, điều kiện dân cư và sự tốt tươi cho muôn vật. Đại La như một viên ngọc, nếu có ánh sáng của nhận thức soi vào, nó lấp lánh lên bao điều ngưỡng mộ. Tinh cảm của người viết dù không muốn lộ ra vẫn ngập tràn trong tiết tấu, nhịp điệu, trong từng chữ, từng câu “lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu” như thế. Yêu mến Đại La là xuất phát từ ý đồ “mưu toan nghiệp lớn“, là một tầm nhìn xa rộng đến mai sau, vì lợi ích của muôn dân trăm họ. Nội dung đầy chất trí tuệ và tâm hồn ấy được diễn tả bằng hình thức biền văn chuẩn mực. Hình thức này đã góp phần không nhỏ vào hiệu quả của đoạn vãn. Thử nêu một ví dụ về phép đối, chẳng hạn, đối ý, đối lời, đối thanh, đối nhịp. Ở đây, tác giả đã khá dụng công, ví dụ : ngay ở câu đầu hai vế : “Ở vào nơi trung tâm trời đất ; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi“, mỗi vế có bảy chữ, bằng trắc thay nhau thật du dương trầm bổng. Ây là chưa nói xen giữa những câu dài là những câu ngắn có tác dụng bắc cầu cho câu dài tiếp nối cái mạch vãn đầy hứng khởi trào dâng. Chẳng hạn như câu : “Địa thế rộng mà bằng ; đất đai cao mà thoáng“, sau đó tiết tấu dãn ra : “Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt ; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi“. Để sơ kết, cũng là để nhấn mạnh về vị thế tuyệt vời của thế đất Đại La, tác giả sử dụng nhịp văn dồn dập với những cách tôn vinh không đơn điệu : đã là nơi “thắng địa”, “chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương” còn là “nơi kinh đô bậc nhất“,… Lập luận và lí lẽ đến mức ấy thì câu kết của bài dù chỉ là bỏ ngỏ (“Các khanh nghĩ thế nào ?”) tưởng như chưa có hồi âm, nhưng thực ra thì đáp số đã nằm ngay trong đó.

Sự kiện dời đồ tuy trong sử sách là một công việc bình thường, tuỳ thuộc vào yếu tố khách quan (ý trời, vận nước), vào yếu tố chủ quan (tầm nhìn của người chèo lái), nhưng ở vào thời điểm Lí Công Uẩn dời đô thì đó là một cái mốc, một bước ngoặt lớn lao, một sự kiện phi thường. Phải có tiềm lực (vật chất, tinh thần đến một mức mà thời Đinh, Lê chưa có), phải có một khát vọng, một ý chí, quốc gia đó mới đủ sức vươn lên bằng cách thoát ra cái vỏ bọc giam mình trong cái thế giậm chân tại chỗ. Nếu trong truyền thuyết có một Phù Đổng vươn vai đánh giặc giữ nước thì hành động của Lí Công uẩn chẳng phải là hành động đó hay sao, trong sự nghiệp dựng nước thời bình ? Sự nghiệp ấy và bài văn ấy như hai hiện tượng sóng đôi đã đi vào lịch sử và văn chương như một sự kế tục và khơi nguồn để con sông “đỏ nặng phù sa” của lòng yêu nước thêm sâu, thêm rộng.

(Chắc vậy)


Các câu hỏi tương tự
H T T
Xem chi tiết
Đoàn Hoài Trang
Xem chi tiết
lan anh
Xem chi tiết
HarryVN
Xem chi tiết
Thướng Hoàng Tv
Xem chi tiết
Ctuu
Xem chi tiết
Lương Khánh Lợi
Xem chi tiết
Kitovocam Mạnh
Xem chi tiết
Nghia Cu
Xem chi tiết