Học kì 2

송중기

1.kể 6 hành vi vi phạm Hiến pháp pháp luật nhà nước mà công dân không được làm

2.kể 6 hành vì thực hiện đúng Hiến pháp pháp luật Nhà nước

3.Nêu nội dung cơ bản của hiến pháp hiện nay

HEPLS ME!

Quỳnh Như
18 tháng 8 2017 lúc 8:03

câu 1 :

Hiến pháp là một hệ thống quy định những nguyên tắc chính trị căn bản và thiết lập kiến trúc, thủ tục, quyền hạn và trách nhiệm của một chính quyền. Nhiều hiến pháp cũng bảo đảm các quyền nhất định của nhân dân. Xét về mặt nội dung, hiến pháp là đạo luật cơ bản quy định các quy tắc pháp lý quan trọng nhất của quốc gia, ấn định hình thể quốc gia, ấn định các cơ quan điều khiển quốc gia cùng những thẩm quyền của các cơ quan ấy. Hiến pháp là văn bản phản ánh tổ chức chính trị của quốc gia.

Trước khi là đạo luật cơ bản, hiến pháp phải là một đạo luật. Với tư cách là đạo luật, hiến pháp phải được tổ chức thực thi, mà đã là thực thi thì bên cạnh những hành vi thực hiện đúng, cũng có những hành vi thực thi sai, không khác nào việc thực thi các đạo luật bình thường khác.

Với tư cách là đạo luật cơ bản, tức là đặc biệt, có hiệu lực pháp lý tối cao nên việc thi hành và việc vi phạm cũng đặc biệt: Trước hết, chủ thể thi hành Hiến pháp là đặc biệt so với chủ thể thi hành các đạo luật bình thường khác. Điểm khác căn bản của Hiến pháp với các đạo luật khác ở chỗ chủ thể thi hành Hiến pháp là quan chức, mà không phải là công dân. Đó là các cơ quan, tổ chức nắm quyền lực nhà nước. Cơ quan, tổ chức quyền lực nhà nước càng có nhiều quyền lực bao nhiêu, càng phải có trách nhiệm phải thi hành hiến pháp bấy nhiêu. Bên cạnh việc thi hành là khả năng vi phạm. Đó là Nghị viện/Quốc hội, cơ quan thực hiện quyền lập pháp. Đó là Chính phủ, cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Đó là các cơ quan Đảng cầm quyền thông qua các hoạt động của lập pháp và hành pháp. Đó là các cơ quan chính quyền địa phương. Khác với đạo luật thường khác, việc thực thi Hiến pháp không những qua các quy định, mà còn cả tinh thần của Hiến pháp.

Thứ đến là mức độ nguy hại của các hành vi vi phạm Hiến pháp, chúng gây hậu quả rất lớn, đến nhiều người và thậm chí nguy hại cho nhiều thế hệ, cản trở sự phát triển của quốc gia, các hành vi vi phạm này thường ở tầm chủ trương chính sách.

Và cuối cùng, những hành vi vi phạm này rất khó phát hiện và rất khó xử lý. Cho đến nay, mặc dù đã có gần 200 nước có Hiến pháp, nhưng chỉ mới có dưới 10% số nhà nước có tòa án chuyên xử việc vi phạm hiến pháp của các cơ quan và quan chức nhà nước vi phạm.

Cũng như việc thi hành các đạo luật bình thường khác, thực tiễn cho thấy có hai loại hành vi vi phạm Hiến pháp:

- Hành vi hành động vi hiến là hành vi của chủ thể thực hiện hành động trái với các quy định Hiến pháp, hoặc không phù hợp với Hiến pháp. Đó có thể là hành vi của cơ quan ban hành văn bản pháp luật không phù hợp hoặc trái với Hiến pháp; hành vi của một cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm thẩm quyền (lạm quyền) mà Hiến pháp trao cho; hoặc hành vi của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào nhân danh nhà nước ngăn cản hoặc hạn chế việc thực hiện quyền và tự do hợp pháp của cá nhân người dân theo quy định của Hiến pháp.

- Hành vi không hành động vi hiến là hành vi không thực hiện thẩm quyền và nghĩa vụ đã được Hiến pháp quy định. Cơ quan, tổ chức, cá nhân được Hiến pháp giao thẩm quyền, nếu không thực hiện hoặc thực hiện không kịp thời những thẩm quyền và nghĩa vụ đó thì sẽ bị coi là vi phạm Hiến pháp không hành động (unconstitutional omission).

Trong các trường hợp mà cơ quan, cá nhân có thẩm quyền chậm trễ hoặc không thực hiện thẩm quyền ban hành văn bản quy định cụ thể về các quyền và tự do hiến định của người dân thì không bị coi là vi phạm Hiến pháp ở một số nước. Trong mối quan hệ giữa Nhà nước và người dân, một khi Nhà nước ghi nhận và khẳng định quyền và tự do của người dân trong Hiến pháp đồng nghĩa với việc Nhà nước xác định nghĩa vụ, trách nhiệm của mình phải bảo đảm thực hiện. Do vậy, sự thiếu hụt hay chậm trễ ban hành của các văn bản quy phạm pháp luật quy định quyền và tự do hiến định của người dân cũng phải được coi là vấn đề Hiến pháp và xem xét tính hợp hiến của hành vi không hành động của cơ quan, cá nhân được trao thẩm quyền.

Cũng giống như các đạo luật thường khác, một khi đã có hiện tượng vi phạm thì phải có sự xét xử của tòa án. Nhưng khác với đạo luật bình thường khác, việc xét xử các hành vi vi phạm hiến pháp không được các nhà nước thừa nhận ngay từ đầu. Ngay cả nước Mỹ, với bản Hiến pháp thành văn đầu tiên thành khuôn mẫu của thế giới cũng rất đắn đo cho việc xét xử các hành vi vi hiến của các cơ quan quyền lực quốc gia. Trong phán quyết nổi tiếng trong vụ án Mabury kháng Madison của Chánh án Marshall làm rạng danh tên tuổi của ông có lập luận: “Hiến pháp hoặc là đạo luật tối cao, không thể thay thế bằng những phương thức bình thường hoặc nó ở hệ cấp bình thường như các đạo luật khác của ngành lập pháp và nó có thể bị ngành lập pháp thay đổi nếu muốn. Nếu lựa chọn thứ nhất là đúng, thì luật mâu thuẫn với Hiến pháp không thể là luật. Nếu lựa chọn thứ hai là đúng thì Hiến pháp thành văn là một nỗ lực ngu xuẩn của con người trong việc giới hạn quyền lực nhà nước trong bản chất vô giới hạn của nó”1.

Nước Pháp, mãi những năm gần đây mới bắt đầu thành lập Tòa án Hiến pháp để xét xử các hành vi vi hiến. Trước đó, ở họ vẫn tồn tại một Hội đồng với tư cách tư vấn cho Tổng thống về các dự án luật trước khi được Quốc hội thông qua. Bên cạnh đó, kết quả xét xử thắng kiện cho người khởi kiện là rất ít, theo thống kê cho thấy chỉ trong khoảng 1,5%. Nhưng con số nhỏ nhoi đó cũng đủ sức mạnh cho việc răn đe các cơ quan công quyền trong việc đối nhân xử thế với công dân, và người công dân nhỏ bé cũng cảm nhận được vị thế lớn lao của mình khi được Hiến pháp bảo vệ2.

2. Từ khẩu hiệu: Toàn Đảng, toàn dân nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật

Câu khẩu hiệu này là một trong những khẩu hiệu rất phổ biến ở Việt Nam, cũng như ở nhiều nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây. Nhưng xét dưới giác độ lý luận và pháp lý thì câu khẩu hiệu trên không đúng một cách hoàn hảo. Bởi vì Hiến pháp với tư cách là đạo luật cơ bản có hiệu lực pháp lý tối cao được làm ra, được thông qua không phải cho nhân dân thực hiện. Người thực hiện chính, chủ thể thực hiện chính là các cơ quan nhà nước thông qua các quan chức của Nhà nước. Cơ quan nhà nước, cá nhân trong thành phần các cơ quan nhà nước càng cao bao nhiêu thì càng phải có trách nhiệm tuân thủ Hiến pháp bấy nhiêu.

Những người dân bình thường không có khả năng vi phạm Hiến pháp. Một khi Hiến pháp được thi hành nghiêm chỉnh, thì người dân chỉ được lợi mà thôi, không có điều ngược lại. Bởi lẽ, đối tượng điều chỉnh ở nghĩa hẹp nhất của Hiến pháp là giới hạn quyền lực nhà nước. Điều này cũng là dễ hiểu, vì bản thân sự hiện diện của một bản Hiến pháp thành văn và sự đòi hỏi việc tuân thủ bản hiến pháp này đã bao hàm sự giới hạn quyền lực nhà nước. Cũng như những đạo luật khác, sự hiện diện của nó đã đòi hỏi một sự tuân thủ. Nếu không có sự tuân thủ thì cũng chẳng cần đến việc chuẩn bị, việc thảo luận, rồi thông qua chúng.

Khác với các đạo luật thông thường khác, chủ thể phải có trách nhiệm thực hiện Hiến pháp là các quan chức nhà nước, mà không phải mọi công dân. “Trong tất cả mọi thời đại, các nhà lãnh đạo trong một nền dân chủ hợp hiến hành động trong phạm vi mà pháp quyền quy định và chế ước quyền lực của họ” 3. Càng có nhiều thẩm quyền bao nhiêu, càng phải có trách nhiệm thi hành Hiến pháp bấy nhiêu. Luật Hiến pháp là luật điều chỉnh lĩnh vực chính trị, chỉ có những người có chức có quyền mới có những hoạt động, hành vi chính trị. Mọi hành vi có liên quan và trong lĩnh vực chính trị đều phải chịu sự điều chỉnh của Hiến pháp. Trong quá trình thực thi, cũng như trong các lĩnh vực khác, thường có sự vi phạm. Khả năng vi phạm nằm ngay trong phạm vi trách nhiệm phải thi hành của các quan chức nhà nước.

Trong khi đó, quan chức nhà nước cũng là những con người, mà không phải là thiên thần. Bên cạnh những người có đức tính vị tha, hoàn hảo, còn có những cá nhân nắm quyền lực nhưng ích kỷ, cố chấp, tham lam. “Quyền lực có xu hướng dẫn tới đồi bại, quyền lực tuyệt đối thì có xu hướng đồi bại tuyệt đối” (Huân tước Acton, người Anh). Khi tiếp cận với quyền lực nhà nước, con người thường có xu hướng lạm quyền, lộng quyền, do vậy, phải kìm chế bản tính này khi họ có quyền lực nhà nước. Đó là lý do cho sự ra đời của Hiến pháp. Từ chỗ quyền lực nhà nước thuộc về nhà Vua - không bị bất cứ một ràng buộc nào - đến chỗ có một bản hiến pháp thành văn quy định sự hạn chế quyền lực nhà nước là cả một bước tiến dài.

Báo cáo của tổ chức Ngân hàng Thế giới năm 1997 “Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi” còn đưa ra cách thức để chế ước những khuyết tật của Nhà nước: “Một nhà nước hoạt động có hiệu quả có thể đóng góp rất nhiều cho sự phát triển bền vững và giảm đói nghèo. Nhưng chẳng có đảm bảo nào cho rằng, mọi can thiệp của nhà nước đều sẽ mang lại lợi ích cho xã hội. Độc quyền của nhà nước về cưỡng chế, cái mang lại cho nhà nước quyền lực can thiệp một cách có hiệu lực vào hoạt động kinh tế, cũng mang lại cho nhà nước quyền can thiệp một cách độc đoán, chuyên quyền. Quyền lực này, cộng với việc thâm nhập nguồn thông tin, mà dân chúng bình thường không có được, tạo ra những cơ hội cho các công chức xúc tiến những lợi ích của riêng họ hay những bạn bè hoặc đồng minh của họ, làm thiệt hại cho lợi ích chung. Những khả năng kiếm lợi và tham nhũng là rất lớn. Do đó các nước phải cố gắng thiết lập và nuôi dưỡng những cơ chế mang lại cho các cơ quan nhà nước sự mềm dẻo và sự khuyến khích để hoạt động vì lợi ích chung, đồng thời kiềm chế những hành vi độc đoán, tham nhũng trong cách cư xử với các doanh nghiệp và công dân”4.

Những cơ chế này chính là những quy định chế ước quyền lực trong pháp luật mỗi quốc gia, mà trước hết là trong hiến pháp. Tất cả những nhận định đó được gọi là Chủ nghĩa Hiến pháp (Constitutionalizm), mà cốt lõi là sự giới hạn quyền lực nhà nước để bảo vệ nhân quyền, là một phần hoặc tương đương với học thuyết Nhà nước pháp quyền (The Rule of Law).

Do các đặc điểm về lịch sử và địa lý, Việt Nam - mặc dù đã có Hiến pháp, nhưng lại ít chú trọng đến việc thực thi Hiến pháp. Vì vậy việc nghiên cứu, phân tích các hành vi vi phạm Hiến pháp chưa được đặt ra đúng mức. Không những thế, từ lâu nay, trong nhận thức của chúng ta có những người lầm tưởng rằng, Hiến pháp cũng giống như các đạo luật thường khác, được ban hành ra chỉ để cho nhân dân phải thực hiện. Nhận thức phổ biến này được minh chứng bằng biểu hiện của câu khẩu hiệu nói trên: Toàn Đảng, toàn dân nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật.

Bên cạnh đó, lâu nay, từ các giới chức cho đến người dân đều có một nhận thức không đúng khi cho rằng, Hiến pháp là đạo luật tối cao, chỉ tập trung quy định những nguyên tắc chung, mà muốn cho những quy định chung này được thực hiện, cần phải có sự cụ thể hoá bằng các đạo luật.

Trong khi đó, các hành vi vi hiến không phải là không có, hoạt động bảo hiến ở Việt Nam chỉ được hiểu và quy định ở nghĩa rộng, bao gồm các hoạt động giám sát của các cơ quan nhà nước cấp trên đối với các cơ nhà nước cấp dưới và cho đến tận hành vi tuân thủ Hiến pháp của các công dân. Cuối cùng, Hiến pháp giao cho Quốc hội được quyền giám sát tối cao đối với các hoạt động tuân thủ Hiến pháp của mọi cơ quan nhà nước. Đây cũng là một điều phi lý, vì chính Quốc hội mới là chủ thể tiềm tàng khả năng nhất cho việc vi phạm Hiến pháp. Thứ đến là các cơ quan hành pháp, mà đứng đầu là Thủ tướng Chính phủ, trong danh sách các chủ thể tiềm tàng khả năng vi phạm Hiến pháp.

3. Đến việc xác định rõ chủ thể và loại hình vi phạm Hiến pháp

Như trên đã phân tích, khác với những đạo luật bình thường khác, sự vi phạm các quy định của Hiến pháp chỉ do những chủ thể nắm quyền lực nhà nước, càng cao bao nhiêu càng có khả năng vi phạm Hiến pháp bấy nhiêu. Khả năng vi phạm Hiến pháp nằm ngay trong trách nhiệm phải thi hành Hiến pháp. Chính phủ không phải là những thiên thần bao giờ cũng đúng. Họ có hai việc cần phải làm song song với nhau theo cách nói của J. Madisson: một là Chính phủ phải quản lý được người dân, hai là Chính phủ phải quản lý được chính bản thân mình5. Vì vậy, việc vi phạm Hiến pháp nếu có, trước hết phải kể đến cơ quan Quốc hội - lập pháp, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ - hành pháp; cơ quan Chính phủ - bộ và các cơ quan ngang bộ và cơ quan Tòa án - tư pháp. Người dân chỉ có thể vi phạm luật và pháp luật, mà không có cơ hội cho việc vi phạm Hiến pháp. Ví dụ, một hành vi giết người, tức là hành vi xâm phạm đến quy định của Bộ luật Hình sự do Quốc hội - lập pháp ban hành, nhưng sẽ không xâm phạm tới các mối quan hệ được quy định trọng Hiến pháp. Đó là hành vi vi phạm pháp luật - vi pháp, chứ không phải là hành vi vi hiến. Nếu có vi hiến thì chỉ là vi phạm gián tiếp các quy định của Hiến pháp: Quyền được bảo vệ mạng sống - quyền được sống của con người được Hiến pháp bảo vệ.

Hoạt động bảo hiến, hay cụ thể hơn ở nghĩa hẹp là hoạt động tài phán Hiến pháp, phần nhiều tập trung vào hoạt động lập pháp của Quốc hội, tức là hoạt động ban hành các văn bản luật mâu thuẫn với Hiến pháp. Đáng tiếc rằng, Hiến pháp trước đây và hiện hành của Việt Nam lại giao nhiệm vụ giám sát việc tuân thủ Hiến pháp cho rất nhiều chủ thể: Từ Ủy ban nhân dân cấp cơ sở cho đến cấp cuối cùng cao nhất và nặng nề nhất - là Quốc hội.

Hiến pháp năm 1992 hiện hành quy định rất nhiều điều khoản buộc phải có sự ban hành luật để thực thi, nhưng cho đến nay - sau gần 20 năm bản Hiến pháp có hiệu lực - những văn luật phải ban hành vẫn còn đang dự thảo.

Điều 69 Hiến pháp 1992 quy định: người dân có quyền lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật. Nhưng đến nay, vẫn chưa có Luật về Hội và Luật Biểu tình. Điều 51 Hiến pháp 1992 quy định: “Quyền và nghĩa vụ của người dân do Hiến pháp và luật quy định”. Theo quy định này, các văn bản dưới luật không được quy định về nghĩa vụ hoặc quy định hạn chế quyền của người dân. Thực tế cho thấy, trong những năm qua, Quốc hội đã giao cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành một loạt Pháp lệnh quy định về quyền cơ bản của người dân. Ví dụ: các Pháp lệnh về thuế, Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, Pháp lệnh phí và lệ phí… Nhiều ý kiến không đồng ý cách uỷ quyền này và cho rằng, đây là một dạng vi phạm Hiến pháp, vì Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể thay thế vị trí của Quốc hội để quy định những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền cơ bản của người dân. Điều 84 của Hiến pháp đã xác định rõ thẩm quyền của Quốc hội trong việc quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế6.

Trong hoạt động hành pháp, không tuân thủ Hiến pháp được biểu hiện dưới hai hình thức chủ yếu: ban hành các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật có nội dung trái với Hiến pháp về các quyền cơ bản của người dân; và việc lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ không đúng nguyên tắc Hiến pháp, không đúng chức năng, thẩm quyền đã được Hiến pháp quy định.

Quyền tự do kinh doanh và nghĩa vụ đóng thuế của người dân là những quyền Hiến định và luật định. Điều này có nghĩa là, chỉ có Hiến pháp và luật được quyền quy định về vấn đề này. Trong khi đó, nhiều nghị định của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh kèm theo. Vì lẽ đó đã xảy ra tình trạng có quá nhiều “giấy phép con”, và nhiều chính sách thuế,… được ra đời chỉ căn cứ vào các quy định của Chính phủ và các Bộ. Cũng như nhiều Hiến pháp của các quốc gia khác trên thế giới, Điều 71 và Điều 72 của Hiến pháp 1992 quy định: Người dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người dân. Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự.

Nhưng trên thực tế, việc bắt người trước, xét xử sau vẫn còn là phổ biến. Thậm chí hệ thống pháp luật xử phạt vi phạm hành chính của các cơ quan hành pháp quy định cả các biện pháp cưỡng chế hành chính, để gom các cá nhân mà cơ quan hành pháp tự cho là vi phạm pháp luật, đối tượng mại dâm, nghiện ma túy vào các trại tập trung cai nghiện, giáo dưỡng, mà không cần phải thông qua hoạt động xét xử của các cơ quan tư pháp.

Bên cạnh đó, trong hoạt động xét xử, hành vi vi phạm Hiến pháp thường được thấy qua các biểu hiện vi phạm nguyên tắc độc lập xét xử của Toà án.

Kết luận

Lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp này, bên cạnh việc tạo ra một bản Hiến pháp hoàn hảo hơn, chúng ta phải nhận thức cho được trách nhiệm thi hành Hiến pháp và khả năng vi phạm Hiến pháp, nằm ngay trong các cơ quan nhà nước, nhất là trong tổ chức và hoạt động của cơ quan lập pháp và các cơ quan nắm quyền lực nhà nước khác, chứ không phải là từ phía người dân. Người dân chỉ được hưởng lợi khi Nhà nước - thông qua các cơ quan và quan chức nhà nước - thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp. 


câu 3 :

Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi) được Quốc hội thông qua tại kỳ họp này đã được chuẩn bị công phu, nghiêm túc, chắt lọc, tiếp thu được nhiều ý kiến xác đáng của nhân dân, của các vị đại biểu Quốc hội, các chuyên gia, nhà khoa học, đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu đề ra. Hiến pháp đã phản ánh dược ý chí, nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới. Hiến pháp có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến, đã phản ánh được ý chí, nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân; thể hiện rõ và đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; quy định rõ ràng, đúng đắn và đầy đủ về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bảo vệ tổ quốc, tổ chức bộ máy nhà nước, về hiệu lực và quy trình sửa đổi Hiến pháp.

Hiến pháp (sửa đổi) gồm 11 chương, 120 điều (giảm 1 chương và 27 điều so với Hiến pháp năm 1992) với bố cục hợp lý, kỹ thuật trình bày bảo đảm đúng tầm là đạo luật cơ bản, có tính ổn định lâu dài. Sau đây là một số nội dung cơ bản của Hiến pháp (sửa đổi):

1. Về Lời nói đầu

Lời nói đầu của Hiến pháp (sửa đổi) được xâv dựng trên cơ sở kế thừa Lời nói đầu của Hiến pháp hiện hành, nhưng có chắt lọc, lựa chọn ý tứ, từ ngữ để nêu bật được một cách ngắn gọn tinh thần, nội dung của Hiến pháp, đã phản ánh được lịch sử hào hùng của dân tộc và những mốc lịch sử quan trọng, những thành quả cách mạng đã đạt được và thể hiện ý chí, quyết tâm của nhân dân ta, thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng, xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

2. Về bản chất Nhà nước và nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước

Điều 2 của Hiến pháp (sửa đổi) kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992 thể hiện rõ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quvền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; khẳng định nền tảng vững chắc của chính quyền nhân dân là liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; quy định rõ nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước, nhấn mạnh cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp tại khoản 3 Điều 2. Quy định “kiểm soát quyền lực” là một nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền, là một vấn đề mới trong tổ chức quyền lực của Nhà nước ta. Nguyên tắc này đã được thể hiện trong các Chương V, VI, VII, VIII và IX của Hiến pháp. Đây là cơ sở hiến định để tiếp tục thế chế hóa trong các quy định của các luật có liên quan.

3. Về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (Điều 4)

Điều 4 của Hiến pháp (sửa đổi) là kế thừa quy định tại Điều 4 của Hiến pháp năm 1992, khẳng định tính lịch sử, tính tất yếu khách quan sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta và đã bổ sung quy định về bản chất của Đảng, đó là: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng”. Chính do bản chất và nền tảng tư tưởng của Đảng như vậy nên nhân dân ta thừa nhận vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội của Đảng. Hiến pháp đã bổ sung vào Điều 4 quy định về trách nhiệm của Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

4. Về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Điều 9)

Hiến pháp (sửa đổi) đã thể hiện một cách khái quát nhất về vị trí, vai trò quan trọng và chức năng cơ bản của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và là sự kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992 đã bổ sung và thể hiện rõ hơn vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tố quốc của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

5. Về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (Chương II)

Với những nội dung quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân tại Chương II để khẳng định tầm quan trọng của quyền con người, quyền cơ bản của công dân thể hiện nhất quán đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Hiến pháp (sửa đổi) đã ghi nhận các quyền cơ bản của con người về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa theo các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên. Hiến pháp (sửa đổi) tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992; đồng thời, bổ sung một số quyền mới là thành tựu của gần 30 năm đổi mới đất nước; thể hiện rõ hơn trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân.

6. Về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và các thành phần kinh tế (Điều 51)

Để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế nước ta, Hiến pháp (sửa đổi) đã quy định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, khẳng định vai trò của Nhà nước và kinh tế nhà nước trong việc định hướng, điều tiết sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quy định như vậy không ảnh hưởng đến sự vận hành của nền kinh tế thị trường và vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế khác.

7. Về thu hồi đất (Điều 54)

Trong điều kiện phát triển của nước ta hiện nay, việc phải thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội là vẫn cần thiết. Tuy nhiên, để tránh tình trạng thu hồi đất tràn lan, tùy tiện, Hiến pháp (sửa đổi) đã quy định việc thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội phải gắn trực tiếp với các mục tiêu vì lợi ích quốc gia, công cộng.

8. Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc (Điều 64)

Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Hiến pháp (sửa đổi) về cơ bản vẫn kế thừa các quy định của Hiến pháp hiện hành, khẳng định bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và là quyền cao quý của công dân. Tuy nhiên, do nội hàm bảo vệ Tổ quốc rộng lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, văn hóa, xã hội. Vì vậy, Hiến pháp (sửa đổi) đã quy định khái quát "Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân” tại Điều 64; còn những vấn đề về quốc phòng, an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội thì được quy định tại các điều 65, 66, 67, 68 và trong các nội dung khác của Hiến pháp (sửa đổi).

9. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội (Điều 70, Điều 74)

- Hiến pháp (sửa đổi) tiếp tục khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Về ngân sách nhà nước, Quốc hội nhận thấy, việc nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của địa phương về ngân sách là cần thiết để địa phương chủ động trong việc triển khai ngân sách nhằm hoàn thành những mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế - xã hội của mình. Tuy nhiên, việc tách bạch hoàn toàn giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương là không phù hợp với tình hình thực tế hiện nay ở nước ta. Nhà nước Việt Nam là thống nhất, tài chính nhà nước và ngân sách nhà nước là thống nhất trong quản lý, Quốc hội đại diện cho cử tri cả nước. Do đó Hiến pháp (sửa đổi) vẫn tiếp tục khẳng định, việc quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước vẫn thuộc trách nhiệm của Quốc hội.

- Do vị trí của đại sứ là đại diện đặc mệnh toàn quyền của nước ta ở nước ngoài nên việc quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn để Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cử, triệu hồi đại sứ là cần thiết. Hiến pháp (sửa đổi) đã kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 về vấn đề này và quy định như vậy cũng phù hợp với thông lệ quốc tế. Ngoài ra, với tư cách là cơ quan thường trực của Quốc hội, Hiến pháp (sửa đổi) cũng giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội thẩm quyền “Quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”. Theo Hiến pháp hiện hành thẩm quyền này thuộc Chính phủ.

10. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước (Điều 88)

- Hiến pháp (sửa đổi) tiếp tục khẳng định, Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại, thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh. Tuy nhiên, Hiến pháp (sửa đổi) đã làm rõ thẩm quyền của Chủ tịch nước trong từng lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp và quy định mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội, Chính phủ, cơ quan tư pháp. Đồng thời, đã làm rõ hơn vai trò thống lĩnh lực lượng vũ trang của Chủ tịch nước trong việc quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đôc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam...; cùng với đó là bổ sung quy định thẩm quyền của Hội đồng quốc phòng và an ninh do Chủ tịch nước làm Chủ tịch quyết định việc lực lượng vũ trang nước ta tham gia hoạt động góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.

11. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (Điều 96, Điều 98)

- Hiến pháp (sửa đổi) tiếp tục quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và bổ sung chức năng thực hiện quyền hành pháp cho Chính phủ. Theo đó, Chính phủ được quy định những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể để thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về các lĩnh vực của đời sống; kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

- Về thẩm quyền và trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Hiến pháp (sửa đổi) phân định rõ hơn thẩm quyền và trách nhiệm của tập thể Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.

12. Về Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân (Chương VIII)

Hiến pháp (sửa đổi) đã quy định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; Viện kiểm sát nhân dân thực hành quvền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; đồng thời quy định một cách tổng quát về mô hình tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, làm cơ sở hiến định cho việc tiếp tục đổi mới hoạt động tư pháp, phù hợp với yêu cầu của Nhà nước pháp quyền.

13. Về chính quyền địa phương (Chương IX)

- Hiến pháp (sửa đổi) tiếp tục kế thừa quy định của Hiến pháp hiện hành về các đơn vị hành chính nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, ổn định trong cấu trúc hành chính ở nước ta; đồng thời bổ sung quy định về đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, đơn vị hành chính tương đương với quận, huyện, thị xã thuộc thành phố trực thuộc Trung ương; có quy định nhằm khắc phục những hạn chế trong việc thành lập, nhập, chia, điều chỉnh đơn vị hành chính.

- Về tổ chức chính quyền địa phương, Hiến pháp (sửa đổi) quy định khái quát theo hướng: "Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định", việc tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân cụ thể ở từng đơn vị hành chính sẽ được quy định trong Luật tổ chức chính quyền địa phương.

14. Về Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước (Chương X)

- Nhằm thể hiện đầy đủ, sâu sắc hơn chủ quyền nhân dân, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình, thể chế hóa một trong những chủ trương của Đảng là “tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế định bầu cử...”. Hiến pháp (sửa đổi) đã quy định tổng quát về Hội đồng bầu cử quốc gia, còn những vấn đề cụ thể về tổ chức và hoạt động của Hội đồng bầu cử quốc gia sẽ do luật định.

- Hiến pháp (sửa đổi) cũng quy định một thiết chế hiến định độc lập là Kiểm toán Nhà nước phù hợp với thực tiễn hoạt động của Kiểm toán Nhà nước và cũng phù hợp với thông lệ quốc tế.

* Để có căn cứ pháp lý cho việc triển khai thi hành Hiếp pháp mới, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết quy định một số điểm thi hành Hiến pháp, trong dó quy định rõ thời hạn công bố chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày thông qua, thời điểm Hiến pháp (sửa đổi) có hiệu lực là từ ngày 01 tháng 01 năm 2014, đồng thời quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp, trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến Hiến pháp nhằm bảo đảm Hiến pháp được tuân thủ và chấp hành nghiêm trong tất cả các lĩnh vực của đời sống, xã hội


Các câu hỏi tương tự
Đô Trần Văn Việt
Xem chi tiết
ng thành
Xem chi tiết
Đô Trần Văn Việt
Xem chi tiết
Hải  jdcj cj
Xem chi tiết
ng thành
Xem chi tiết
Nguyễn Minh Hoàng
Xem chi tiết
Phạm Như
Xem chi tiết
cát phượng
Xem chi tiết
cát phượng
Xem chi tiết