Văn bản ngữ văn 9

Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài
quynh hoa

1) viết đoạnvăn cảm nhận về người línhtrong bài đồng chí

2) trong bài tiểu đội xe không kính

Kiêm Hùng
31 tháng 10 2018 lúc 19:58

Người lính nông dân đã đi vào thơ ca bằng những hình ảnh chân thật và đẹp trong “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Cá nước” của Tố Hữu... nhưng tiêu biểu hơn cả là bài “Đồng chí” của Chính Hữu. Bài thơ được sáng tác vào năm 1948 là năm cuộc kháng chiến hết sức gay go, quyết liệt. Trong bài thơ này, tác giả đã tập trung thể hiện mối tình keo sơn gắn bó, ngợi ca tình đồng chí giữa những người lính trong những năm kháng chiến chống Pháp.

Cảm nhận đầu tiên của chúng ta khi đọc bài thơ là hình ảnh người lính hiện lên rất thực, thực như trong cuộc sống còn nhiều vất vả lo toan của họ. Ngỡ như từ cuộc đời thực họ bước thẳng vào trang thơ, trong cái môi trường quen thuộc bình dị thường thấy ở làng quê ta còn đói nghèo lam lũ:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua,

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.

Quê hương xa cách nhau, mỗi người mỗi nơi. Người quê ở miền biển “nước mặn đồng chua”, người ở vùng đồi núi “đất cày lên sỏi đá”. Song dù xa cách nhau, dù khác nhau, nhưng đều là quê hương của lam lũ, vất vả, đói nghèo. Chữ nghĩa bình thường mà như đang cựa quậy khi cuộc sống thực đã ùa vào câu thơ đem đến những cảm nhận sâu sắc về quê hương người lính.

Tuy ở những phương trời khác nhau, “chẳng hẹn quen nhau”, nhưng cùng sống và chiến đấu với nhau trong một đội ngũ, những người lính đã tự nguyện gắn bó với nhau:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

Cái rét ở rừng Việt Bắc đã nhiều lần vào trong thơ bộ đội chống Pháp vì đó là một thực tế ai cũng nếm trải trong những năm chinh chiến ấy. Có điều lạ là câu thơ nói đến cái rét gợi cho người đọc một cảm giác ấm cúng của tình đồng đội, nghĩa đồng bào. Câu thơ của Chính Hữu đã diễn tả tình đồng chí thật cụ thể và cô đọng, sự gắn bó giữa những người đồng chí cùng chung nhau chiến đấu “súng bên súng”, cùng chung một lí tưởng “đầu sát bên đầu”. Sự gắn bó mỗi lúc lại càng thêm sâu sắc: Là súng bên súng đến đầu bên đầu, rồi thân thiết hơn nữa là đắp chung chăn, thành tri kỉ.

Đoạn thơ đầu của bài thơ kết thúc bằng hai chữ “Đồng chí” làm sáng tỏ thêm nội dung, ý nghĩa của cả đoạn thơ. Nó giải thích vì sao người lính từ bốn phương trời xa lạ, không hẹn gặp nhau mà bỗng trở thành thân thiết hơn máu thịt. Đó là sự gắn bó giữa những người anh cùng chung một lí tưởng chiến đấu, là sự gắn bó kì diệu, thiêng liêng và mới mẻ của tình đồng chí.

Những người lính, những đồng chí ấy ra đi chiến đấu với tinh thần tự nguyện:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Họ vốn gắn bó sâu nặng với ruộng nương, với căn nhà thân thiết, nhưng cũng sẵn sàng rời bỏ tất cả để ra đi. Nhà thơ đã dùng những hình anh quen thuộc và tiêu biểu của mọi làng quê Việt Nam như biểu tượng của quê hương những người lính nông dân. Giếng nước, gốc đa không chỉ là cảnh vật mà còn là làng quê, là dân làng. Cảnh vật ở đây được nhân cách hoá, như có tâm hồn hướng theo người lính.

Tác giả tả rất thực về cuộc sống của người lính. Nhà thơ không che giấu mà như còn muốn nhấn mạnh để rồi khắc hoạ rõ nét hơn cuộc sống gian lao thiếu thốn của họ. Và phải là người trong cuộc thì mới vẽ lên bức tranh hiện thực sống động về người lính với một sự đồng cảm sâu sắc như vậy:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh.

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

Thơ ca kháng chiến khi nói tới gian khổ của người lính thường nói rất nhiều tới cái lạnh, cái rét. Đoạn thơ thứ hai này kết thúc bằng câu “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Một sự cảm thông, chia sẻ vừa chân thành, vừa tha thiết làm sao. Người ta bảo bàn tay biết nói là thế. Hình ảnh kết thúc đoạn thứ hai này cắt nghĩa vì sao người lính có thế vượt qua mọi thiếu thốn, gian khổ, xa quê hương, quần áo rách vá, chân không giày, mùa đông lạnh giá với những cơn sốt rét “run người”... Hơi ấm của tình đồng chí truyền cho nhau đã giúp người lính thắng được tất cả. Hình ảnh kết thúc bài thơ chỉ có ba dòng:

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chở giặc tới

Đầu súng trăng treo

Sau những câu thơ tự do đang trải dài “Đêm nay rừng hoang sương muối”... câu kết thúc thu vào trong bốn chữ làm nhịp thơ đột ngột thay đổi, dồn nén, chắc gọn, gây sự chú ý cho người đọc. Hình ảnh kết thúc bài thơ đầy thơ mộng, cái thơ mộng của gian khố, hiểm nguy: một cánh rừng, một màn sương, một vầng trăng với hai ngọn súng, hai con người chờ giặc. “Đầu súng trăng treo” cùng là một câu thơ dồn nén và có sức tạo hình, nó đẹp như một biểu tượng chiến đấu của những người lính giàu phẩm chất tâm hồn. Đó cũng là vẻ đẹp trữ tình mới của thơ ca kháng chiến, kết hợp được súng và trăng mà không khiên cưỡng.

Toàn bài “Đồng chí” từ chi tiết cuộc sống đến cảm giác của tác giả đều rất thật, không một chút tô vẽ đắp điểm, không bình luận, thuyết minh. Bài thơ thiên về khai thác đời sống nội tâm, tình cảm người lính, vẻ đẹp của “Đồng chí” là vẻ đẹp của đời sống tâm hồn người lính mà nơi phát ra vầng ánh sáng lung linh nhất là mối tình đồng đội, đồng chí hoà quyện vào tình giai cấp. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” ở cuối bài nâng vẻ đẹp người lính lên đến đỉnh cao khái quát trong đó có sự hài hoà giữa hiện thực và lãng mạn đồng thời mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc.

Kiêm Hùng
31 tháng 10 2018 lúc 19:59

Phạm Tiến Duật là nhà thơ tiêu biểu trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông có giọng điệu hóm hỉnh, ngang tàn. Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là bài thơ tiêu biểu cho giọng thơ ấy của ông, được sáng tác năm 1969. Đặc biệt để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc là hình ảnh người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn ác liệt, mang vẻ đẹp tinh nghịch, lạc quan, yêu đời, yêu dân tộc và một trái tim nhiệt huyết.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã giới thiệu hoàn cảnh chiến đấu khó khăn, ác liệt mà người chiến sĩ phải ngày ngày trải qua, đối mặt:

“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng”.



Rõ ràng là xe chiến đấu phải được trang bị cẩn trọng, kĩ lượng nhưng những chiếc xe của người lính Trường Sơn lại bị thiệt hại nghiêm trọng, hỏng hóc đến tàn tạ. nhưng cũng chính những chiếc xe ấy đã cho ta thấy được sự ác liệt và sức phá hủy khủng khiếp của chiến tranh, nhưng trên chiếc xe ấy, các chiến sĩ của xe không kính vẫn hiên ngang, ngang tàn thậm chí có chút tinh nghịch, yêu đời. Hai từ “ung dung”, điệp từ “nhìn” được lặp lại 3 lần càng cho thấy được thái độ thản nhiên, bình thản trước khó khăn như một điều tất yếu của người chiến sĩ, thay vào đó họ ung dung, tự tại hòa mình vào hoàn cảnh, vượt lên trên hoàn cảnh, không để khó khăn chế ngự. tư thế ngồi lái tuyệt đẹp của người chiến sĩ cho thấy sự chủ động, tự tin, bình tĩnh trong không khí căng thẳng “bom giật, bom rung”. Chỉ có thể là người chiến sĩ với kinh nghiệm chiến đấu đay dặn, từng trải mới có được thái độ, tư thế ấy. Những thử thách tiếp tục ập tới một cách trực tiếp, mạnh mẽ hơn những người chiến sĩ lại lấy chính khó khăn ấy làm niềm lạc quan, tin tưởng, yêu đời và hóm hỉnh đùa nghịch:

“Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Không cầy thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa mau khô thôi.

Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi.”



Câu thơ vút lên tràn đầy niềm lạc quan, sôi nổi như cái sôi nổi rất mới, rất trẻ của tuổi 20. Những tiếng “ừ thì” vang lên liên tiếp như một sự thách thức, một thái độ cứng cỏi. Dường như những gian khổ, nguy hiểm của chiến tranh không mảy may ảnh hưởng đến tinh thần của họ mà lại như một dịp để họ thử sức mình. Vậy là một lần nữa người chiến sĩ trong thơ lại hiện lên vẻ đẹp trẻ trung, sôi nổi, tinh nghịch, yêu đời và tinh thần lạc quan của tuổi trẻ. Nhưng đó đâu phải là vẻ đẹp duy nhất, trên hành trình dưới mưa bom lửa đạn của tuyến đường Trường Sơn ác liệt thì họ đã coi nhau như anh em ruột thịt, như người nhà, gắn bó với bếp Hoàng Cầm để cùng chia nhau những bát cơm chan chứa yêu thương “chung bát đũa nghĩa là gia đình ấy”. Vâng, những chiếc xe từ trong bom rơi, đã về đây họp thành tiểu đội, gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới, bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi. Những cái bắt tay ấy ta cũng đã gặp trong “Đồng Chí” để sưởi ấm cho nhau trong những đêm đông lạnh gái, còn ở đây cái bắt tay này thể hiện sự đoàn kết, gắn bó , tinh thần lạc quan vượt lên trên những hỏng hóc, đổ nát của chiến tranh. Để rồi càng về cuối, vẻ đẹp của những người chiến sĩ càng thêm rõ nét:

“không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”



Đoàn xe đã chiến thắng bom đạn của kẻ thù, hăm hở tiến ra phía trước với một tình cảm thiêng liêng “vì miền Nam”. Vậy là vì tình yêu thương đồng bào, đồng chí đau khổ đã khích lệ người chiến sĩ vận tải vượt khó khăn, nguy hiểm để luôn bình tĩnh, lạc quan, nắm chắc tay lái nhìn thật đúng hướng để xe khẩn trương tới đích. Và đơn giản, chỉ đơn giản rằng: chỉ cần trong xe có một trái tim. Trong bao nhiêu cái không vô tình ở phía trên bỗng nổi bật lên cái có mãnh liệt của “trái tim” nhiệt thành, gan góc, kiên cường giàu bản lĩnh của người chiến sĩ lái xe. Câu thơ vang lên nhẹ nhàng như lời khẳng định chắc nịch, gan dạ của những trái tim yêu nước cháy bỏng. thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, phẩm chất anh hùng của người cầm lái tích tụ, kết đọng lại ở cái “trái tim” này, trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí sắt đá niềm lạc quan và một niềm tin vững chắc. Như thế chiếc xe vận tải ngộ nghĩnh, độc đáo không phải chỉ chạy bằng xăng dầu mà nó còn chạy bằng ý chí sắt đá, bằng quyết tâm cao độ, bằng lí tưởng và vẻ đẹp chói ngời. Phải chăng chính “trái tim” của người chiến sĩ đã cầm lái.

Như vậy bằng cách vận dụng nhuần nhuyễn các biện pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, nhân hóa và những từ láy biểu cảm, Phạm Tiến Duật đã khắc họa thành công hình ảnh người chiến sĩ cách mạng dũng cảm, gan dạ, lạc quan, và mang vẻ đẹp hóm hỉnh yêu đời của tuổi trẻ. Những vẻ đẹp của những trái tim yêu nước ấy sẽ mãi là vầng sáng trong suốt chặng đường kháng chiến, trong suốt những trang hoa, tờ hoa về người chiến sĩ cách mạng.

Đạt Trần
31 tháng 10 2018 lúc 20:09

1)

Qua bài thơ về tình đồng chí hiện lên chân dung “anh bộ đội cụ Hồ” buổi đầu kháng chiến - bình dị mà cao cả. Đó là những người lính xuất thân từ nông dân. Họ sẵn sàng bỏ lại những gì quý giá, thân thiết của cuộc sống nơi làng quê để ra đi vì nghĩa lớn, nhưng vẫn nặng lòng gắn bó với nơi chôn rau cắt rốn. Họ không chỉ nhớ làng quê mà còn cảm nhận được nỗi nhớ nhung của quê hương.Những người lính cách mạng đã trải qua những gian lao, thiếu thốn tột cùng, những cơn sốt run người, trang phục phong phanh giữa mùa đông giá lạnh (áo anh rách vai/ Quần tôi có vài mảnh vá/ Miệng cười buốt giá chân không giày). Nhưng gian lao, thiếu thốn càng làm sáng lên vẻ đẹp của người lính, sáng lên nụ cười ở họ.Đẹp nhất, ở họ là tình đồng chí, đồng đội sâu sắc, thắm thiết, xuất phát tư tình yêu nước. Đó là cội nguồn của sức mạnh, giúp họ vượt lên tất cả và chiến thắng.Kết tinh vẻ đẹp của người lính và tình đồng chí của họ là bức tranh đặc sắc trong ba câu cuối bài thơ.Ba câu thơ thật cô đọng, hàm súc, giàu chất tạo hình, giàu nhạc điệu. Hình ảnh thơ chân thực, gợi tả mà giàu ý nghĩa khái quát, gợi nhiều liên tưởng, vừa thực vừa lãng mạn. Đặc biệt hình ảnh “Đầu súng trăng treo” để lại ấn tượng sâu đậm, là biểu tượng đẹp, thi vị về người lính và tình đồng chí.

Đạt Trần
31 tháng 10 2018 lúc 20:14

2

Thông qua hình ảnh của những người lính lái xe trong bài thơ bìa thơ về tiểu đội xe không kính của tác giả Phạm Tiến Duật, ta có cái nhìn toàn diện về vẻ đẹp không chỉ của những người lính mà của thế hệ trẻ Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp.Trước hết, đó chính là những con người có tình yêu nước sâu sắc, là những con người có ý thức về việc đấu tranh, giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc. Họ vốn là những người trẻ ở độ tuổi đôi mươi, độ tuổi đẹp nhất của đời người nhưng họ đã sẵn sàng dâng hiến cả tuổi xuân, cả mạng sống của mình vì lí tưởng thiêng liêng: giải phóng dân tộc,mang lại tự do cho đất nước. Đó là những con người trẻ tuổi đầy sức sống, đầy lạc quan, chủ động. Trước những khó khăn, gian khổ của chiến tranh những người lính không đầu hàng mà vượt qua nó bằng sức mạnh của tuổi trẻ, sức mạnh của lí tưởng cao đẹp. Họ nhìn về những khó khăn đầy lạc quan, hài hước. Là những con người có lòng sục sôi đấu tranh cùng sự kiên định vì mục tiêu giải phóng miền Nam phía trước. Bom đạn của kẻ thù chỉ có thể tạo ra những trở ngại,mất mát về vật chất nhưng không thể phá hủy được tinh thân quyết tâm, trái tim đầy sục sôi của thế hệ trẻ của một dân tộc anh hùng.Hình tượng những người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và những người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính đều là những con người kiên cường, quả cảm, họ đều đấu tranh hết mình cho lí tưởng giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức của thực dân phong kiến. Nhưng điểm khác ở đây chính là những người lính lái xe có thêm sự chủ động làm chủ tình hình. Bởi lúc này cách mạng của ta đã trưởng thành sau chín năm kháng chiến chống Pháp, bộ đội và cách mạng của ta vẫn đang làm chủ được tình thế.


Các câu hỏi tương tự
Phạm Thị Huệ
Xem chi tiết
Đàm Thảo Anh
Xem chi tiết
Thảo Nguyên Dương
Xem chi tiết
Mai Hương
Xem chi tiết
Grim XDGame
Xem chi tiết
Min군대
Xem chi tiết
Lê Hoàng Mỹ Nguyễn
Xem chi tiết
Nguyễn Duy Minh
Xem chi tiết
Minh Khoa Tran
Xem chi tiết