1. Sử dụng chữ điệp âm đầu:
Thẳng thắn, thật thà thường thua thiệt
Lọc lừa, lươn lẹo lại lên lương
Tết tiếc túng tiền tiêu
Tính toán toan tìm tay tử tế
Cô kia còn kênh kiệu
Kỹ càng cố kén cậu căn cơ
Hội hè hòng hí hửng
Hỏi han hàng họ hẳn hay ho
Mới mẻ mừng mợ mạnh
Mỹ miều mà mở mặt môn mi
Aí ân êm ấm ấy
Ỡm ờ uốn éo ý yêu ai
2. Thay đối trật tự các chữ (hay nói ngược):
Vợ cả, vợ hai, (hai vợ) cả hai đều là vợ cả.
Thầy tu, thầy chùa, chùa thầy cứ việc thầy tu.
Câu đối của tri huyện Lê Kim Thằng và Xiển Bột:
Học trò là học trò con, tóc đỏ như son là con học trò.
Tri huyện là tri huyện Thằng, ăn nói lằng nhằng là thằng tri huyện.
3. Đưa các chữ cùng một đối tượng, một khái niệm vào trong câu đối
Tập trung các chữ chỉ mùa và hướng:
Chợ Đồng Xuân bán bánh trung thu, đông thì đông, nhưng không bán hạ
Người miền Đông làm nhà đất Bắc, Tây thì Tây, vẫn dựng kiểu Nam.
Tập trung nhiều tên cây:
Thầy Bá Bưởi đi xuống cầu Chanh, đồ đề chi mà bưng bồng kín mít.
Cô Tư hồng ở làng cầu Cậy, nhân duyên gì mà quấn quít cho cam.
Nhân một cuộc nhàn du, đến thăm ngôi chùa nọ, thấy Sư Cụ trụ trì có viết một vế đối ra cho khách thập phương tới lễ chùa rằng:
Đọc ba trăm sáu mươi quyển kinh, chẳng thần, thánh, Phật, Tiên nhưng khác tục!
Cụ Nguyễn Công Trứ cho rằng nhà tu hành có vẻ tự kiêu quá nên đã đốii lại:
Hay tám vạn nghìn tư mặc kệ, không quân, thần, phụ, tử, ***** ra người!
4. Vận dụng sự nói lái :
Khá hay, nhưng khi nói lái, nhiều từ ngữ lại mang nghĩa tục
Câu này khá thông dụng:
Con cá đối nằm trên cối đá
Đặc biệt, mỗi thành phần của hai vế đều là nói lái:
Thầy giáo tháo giầy, vấy đất vất đấy.
Thầy tu thù Tây, cạo đầu cầu đạo.
5. Vận dụng các chữ đồng âm :
Khá thú vị
Con ngựa đá con ngựa đá, con ngựa đá không đá con ngựa
Thằng mù nhìn thằng mù (bù) nhìn, thằng mù (bù) nhìn không nhìn thằng mù
Ngày nay Ngày Nay in nhà in nhà.
(Ngày Nay là tên một tờ báo của nhóm Tự Lực Văn Đoàn)
Trọng tài trọng tài vận động viên,
Vận động viên động viên trọng tài.
1. Tách chữ :
Các chữ công kênh, cồng kềnh, cóc cách, cọc cạch được tách ra ở hai vế:
Con công đi qua chùa Kênh, nó nghe tiếng cồng, nó kềnh cổ lại
Con cóc leo cây vọng cách, nó rơi trúng cọc, nó cạch đến già.
(Chùa Kêng ở Bắc Ninh, kềnh là ngoảnh lại, vọng cách là cây dùng để ăn gỏi, cạch là chừa bỏ vì sợ)
Các chữ kim chỉ, vá may:
Ngựa kim ăn cỏ chỉ
Chó vá cắn thợ may
Tách tên nhân vật:
Thúy Kiều đi qua cầu, nhác thấy chàng Kim lòng đã Trọng
Trọng Thủy nhòm vào nước, thoáng nhìn nàng Mỵ mắt rơi Châu.
2. Vận dụng chữ trái nghĩa:
Câu đối của Tú Cát và Trạng Quỳnh:
Trời sinh ông Tú Cát
Đất nẻ con bọ hung
(Hán Việt, cát là tốt, hung là xấu)
3. Vận dụng cả đồng âm lẫn đồng nghĩa :
Câu đối của bà Đoàn Thị Điểm bắt bí Trạng Quỳnh:
Da trắng vỗ bì bạch
(Bì bạch là Hán Việt, đồng nghĩa với da trắng & đồng âm với từ tượng thanh bì bạch)
Rừng sâu mưa lâm thâm
Cô Miên ngủ một mình
Trời xanh màu thiên thanh
Lộc là hươu, hươu đi lộc cộc
Ngư là cá, cá lội ngắc ngư
Cốc cốc đánh mõ rình cót thóc,
Thử đêm nay chuột có cắn không
Tùng tùng hồi trống đào cây thông,
Ô cành nọ quạ không đậu được
Có một vế thách đối hóc búa, đang chờ người tài hoa:
Cha con thầy thuốc về quê, gánh một gánh hồi hương, phụ tử
(Các chữ Hán Việt hồi hương, phụ tử đồng nghĩa với về quê, cha con và đồng âm với tên hai vị thuốc bắc hồi hương, phụ tử)
4. Lấy hai câu thơ trong Truyện Kiều rồi thêm hoặc bớt một tiếng:
Câu đối dán ở cửa buồng vợ lẽ:
Khi vào dùng dằng, khi ra vội ..
Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng ..
(Bỏ hai chữ vàng và chung)
Câu đối Tết
Người Việt Nam chúng ta mỗi dịp xuân về có tục chơi câu đối Tết. Tục này không biết rõ phát sinh từ thời nào nhưng chắc chắn là cũng lâu lắm rồi. Câu đối sau đây chắc không ai trong chúng ta mà không biết:
Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Nêu cao tràng pháo bánh chưng xanh
Xuân lai tăng lộc thọ
Phúc đáo vĩnh Khang Ninh
Những câu đối của Hy Văn tướng công Nguyễn Công Trứ:
Tả cảnh nghèo của một kẻ sĩ:
Tối ba mươi nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa.
Sáng mồng một rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.
Công nợ rối canh tàn, ước những mười năm dồn lại một.
Rượu chè tràn quy tị, trông cho ba bữa hóa ra mười.
Trong cảnh thanh bần, nhiều khi không đợi, không mong mà xuân vẫn cứ đến:
Duột trời ngất một cây nêu, tối bữa ba mươi ri là Tết.
Vang đất đùng ba tiếng pháo, rạng ngày mùng một rứa cũng xuân.
Bàn một chiếc lăn chiêng, mặc sức tam dương khai thái.
Nhà hai gian bỏ trống, tha hồ ngũ phúc lâm môn.
Cụ cũng giúp cho người mù, không biết màu sắc Xuân, hương vị Tết ra sao một câu đối tức cảnh:
Tối ba mươi nghe tiếng pháo Giao Thừa ờ ờ Tê't.
Sáng mùng một vấp nêu Nguyên Đán à à Xuân.
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương với lời thơ lãng mạn, đã làm câu đối Tết rất trào lộng:
Tối ba mươi khép cánh càn khôn, đóng chặt lại kẻo ma vương đưa quỉ tới
Sáng mồng một lỏng then tạo hóa, mở toang ra cho thiếu nữ rước xuân vào.
Câu Đối - Chơi chữ trong câu đối
Sáng tác và thưởng thức câu đối là một thú phong nhã của người Việt từ xưa đến nay. Những câu đối độc đáo và giá trị đều là những câu đối có vận dụng tài tình tiếng nói của dân tộc. Bởi vậy, chơi chữ giữ vai trò hết sức quan trọng trong câu đối. Có trên mười kiểu chơi chữ khác nhau trong câu đối xưa và nay:
1. Sử dụng chữ điệp âm đầu:
-Thẳng thắn, thật thà thường thua thiệt
Lọc lừa, lươn lẹo lại lên lương
-Tết tiếc túng tiền tiêu
Tính toán toan tìm tay tử tế
-Cô kia còn kênh kiệu
Kỹ càng cố kén cậu căn cơ
-Hội hè hòng hí hửng
Hỏi han hàng họ hẳn hay ho
-Mới mẻ mừng mợ mạnh
Mỹ miều mà mở mặt môn mi
-Aí ân êm ấm ấy
Ỡm ờ uốn éo ý yêu ai
2. Thay đối trật tự các chữ (hay nói ngược):
-Vợ cả, vợ hai, (hai vợ) cả hai đều là vợ cả.
Thầy tu, thầy chùa, chùa thầy cứ việc thầy tu.
-Học trò là học trò con, tóc đỏ như son là con học trò.
Tri huyện là tri huyện Thằng, ăn nói lằng nhằng là thằng tri huyện.
3. Đưa các chữ cùng một đối tượng, một khái niệm vào trong câu đối
Tập trung các chữ chỉ mùa và hướng:
-Chợ Đồng Xuân bán bánh trung thu, đông thì đông, nhưng không bán hạ
-Người miền Đông làm nhà đất Bắc, Tây thì Tây, vẫn dựng kiểu Nam.
Tập trung nhiều tên cây:
-Thầy Bá Bưởi đi xuống cầu Chanh, đồ đề chi mà bưng bồng kín mít.
Cô Tư hồng ở làng cầu Cậy, nhân duyên gì mà quấn quít cho cam.
Nhân một cuộc nhàn du, đến thăm ngôi chùa nọ, thấy Sư Cụ trụ trì có viết một vế đối ra cho khách thập phương tới lễ chùa rằng:
-Đọc ba trăm sáu mươi quyển kinh, chẳng thần, thánh, Phật, Tiên nhưng khác tục!
Cụ Nguyễn Công Trứ cho rằng nhà tu hành có vẻ tự kiêu quá nên đã đốii lại:
-Hay tám vạn nghìn tư mặc kệ, không quân, thần, phụ, tử, ***** ra người!
4. Vận dụng sự nói lái :
Khá hay, nhưng khi nói lái, nhiều từ ngữ lại mang nghĩa tục
Câu này khá thông dụng:
-Con cá đối nằm trên cối đá
Đặc biệt, mỗi thành phần của hai vế đều là nói lái:
-Thầy giáo tháo giầy, vấy đất vất đấy.
Thầy tu thù Tây, cạo đầu cầu đạo.
5. Vận dụng các chữ đồng âm :
Khá thú vị
-Con ngựa đá con ngựa đá, con ngựa đá không đá con ngựa
Thằng mù nhìn thằng mù (bù) nhìn, thằng mù (bù) nhìn không nhìn thằng mù
Ngày nay Ngày Nay in nhà in nhà.
(Ngày Nay là tên một tờ báo của nhóm Tự Lực Văn Đoàn)
-Trọng tài trọng tài vận động viên,
Vận động viên động viên trọng tài.
6. Tách chữ :
Các chữ công kênh, cồng kềnh, cóc cách, cọc cạch được tách ra ở hai vế:
-Con công đi qua chùa Kênh, nó nghe tiếng cồng, nó kềnh cổ lại
Con cóc leo cây vọng cách, nó rơi trúng cọc, nó cạch đến già.
(Chùa Kêng ở Bắc Ninh, kềnh là ngoảnh lại, vọng cách là cây dùng để ăn gỏi, cạch là chừa bỏ vì sợ)
Các chữ kim chỉ, vá may:
-Ngựa kim ăn cỏ chỉ
Chó vá cắn thợ may
Tách tên nhân vật:
-Thúy Kiều đi qua cầu, nhác thấy chàng Kim lòng đã Trọng
Trọng Thủy nhòm vào nước, thoáng nhìn nàng Mỵ mắt rơi Châu.
7. Vận dụng chữ trái nghĩa:
Câu đối của Tú Cát và Trạng Quỳnh:
-Trời sinh ông Tú Cát
Đất nẻ con bọ hung
(Hán Việt, cát là tốt, hung là xấu)
8. Vận dụng cả đồng âm lẫn đồng nghĩa :
Câu đối của bà Đoàn Thị Điểm bắt bí Trạng Quỳnh:
-Da trắng vỗ bì bạch
(Bì bạch là Hán Việt, đồng nghĩa với da trắng & đồng âm với từ tượng thanh bì bạch)
-Rừng sâu mưa lâm thâm
Cô Miên ngủ một mình
Trời xanh màu thiên thanh
-Lộc là hươu, hươu đi lộc cộc
Ngư là cá, cá lội ngắc ngư
-Cốc cốc đánh mõ rình cót thóc,
Thử đêm nay chuột có cắn không
-Tùng tùng hồi trống đào cây thông,
Ô cành nọ quạ không đậu được
Có một vế thách đối hóc búa, đang chờ người tài hoa:
-Cha con thầy thuốc về quê, gánh một gánh hồi hương, phụ tử
(Các chữ Hán Việt hồi hương, phụ tử đồng nghĩa với về quê, cha con và đồng âm với tên hai vị thuốc bắc hồi hương, phụ tử)
9. Lấy hai câu thơ trong Truyện Kiều rồi thêm hoặc bớt một tiếng:
Câu đối dán ở cửa buồng vợ lẽ:
-Khi vào dùng dằng, khi ra vội ..
Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng ..
(Bỏ hai chữ vàng và chung)
Câu đối Tết
Người Việt Nam chúng ta mỗi dịp xuân về có tục chơi câu đối Tết. Tục này không biết rõ phát sinh từ thời nào nhưng chắc chắn là cũng lâu lắm rồi. Câu đối sau đây chắc không ai trong chúng ta mà không biết:
-Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Nêu cao tràng pháo bánh chưng xanh
-Xuân lai tăng lộc thọ
Phúc đáo vĩnh Khang Ninh
Những câu đối của Hy Văn tướng công Nguyễn Công Trứ:
Tả cảnh nghèo của một kẻ sĩ:
-Tối ba mươi nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa.
Sáng mồng một rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.
-Công nợ rối canh tàn, ước những mười năm dồn lại một.
Rượu chè tràn quy tị, trông cho ba bữa hóa ra mười.
Trong cảnh thanh bần, nhiều khi không đợi, không mong mà xuân vẫn cứ đến:
-Duột trời ngất một cây nêu, tối bữa ba mươi ri là Tết.
Vang đất đùng ba tiếng pháo, rạng ngày mùng một rứa cũng xuân.
-Bàn một chiếc lăn chiêng, mặc sức tam dương khai thái.
Nhà hai gian bỏ trống, tha hồ ngũ phúc lâm môn.
Cụ cũng giúp cho người mù, không biết màu sắc Xuân, hương vị Tết ra sao một câu đối tức cảnh:
-Tối ba mươi nghe tiếng pháo Giao Thừa ờ ờ Tê't.
Sáng mùng một vấp nêu Nguyên Đán à à Xuân.
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương với lời thơ lãng mạn, đã làm câu đối Tết rất trào lộng:
-Tối ba mươi khép cánh càn khôn, đóng chặt lại kẻo ma vương đưa quỉ tới
-Sáng mồng một lỏng then tạo hóa, mở toang ra cho thiếu nữ rước xuân vào.
1. Vân Tiền, Vân Tiễn, Vân Tiên
Ai cho đồng tiền tôi kể Vân Tiên.
2.Con mèo, con mẻo, con meo
Ai dạy mày trèo, mà chẳng dạy tao?
3. Con kiến mà leo canh đa
Leo phải cành cụt leo ra, leo vào
Đã trót dan díu đừng về ở đây.
Con kiến mà leo cành đào
4.Rau má là lá lan dây,
Đã trót dan díu, ở đây đừng về.
Rau má là lá lan thề
5. Một trăm thứ dầu, dầu chi là dầu không thắp?
Một trăm thứ bắp, bắp chi là bắp không rang?
Một trăm thứ than, than chi là than không quạt?
Một trăm thứ bạc, bạc chi là chẳng ai mua?
Trai nam nhi anh đối đặng thì gái bốn mùa xin theo.
6.Nhân lúc đồ ngồi nhàn hạ
Ra hồ sen xem ả hái hoa
Ả hớ hênh ả để đồ ra
Đồ trông thấy ngắm ngay tức khắc
Đêm năm canh đồ nằm khôn nhắp
Những mơ màng đồ nọ tưởng đồ kia