* Gợi ý nhé:
1. Tình yêu làng
- Niềm tụ hào, kiêu hãnh của ông về làng khiến ông Hai đi đâu cũng khoe về làng, khoe đến mức thành "tật" dù đã rời làng đi tản cư nhưng ông Hai luôn nghĩ về làng, nghĩ về những buổi làm với anh em dân quân tự vệ xây dựng làng kháng chiến. Nhớ lại kỉ niệm bao mệt mỏi tan biến thay vào đó là niềm vui, niềm vui đókhiến ông Hai như trẻ lại
- Ông yêu làng nên khi nghe tin làng theo giặc tâm trạng ông Hai thay đổi hẳn so với lúc ruột gan ông lão cứ múa cả lên. Trước bao tin vui từ kháng chiến, cổ họng ông nghẹn ắng, cổ họng tê, giọng lạc hẳn đi, ông sững sờ trước tin làng mình Việt gian. Niềm tự hào trong ông sụp đổ, ông không dám tin nên hỏi lại, nhưng lời của những người tản cư đã khiến ông không thể ko tin. Đau đớn, xấu hổ nhục nhã ông đánh trống lảng, cúi mặt bỏ về. Ông nằm vật ra giường nhìn đám con thow rồi suy nghĩ một hồi lâu, ông khóc.Ông điểm lại mọi người trong làng nhưng thấy ai cũng có tinh thần kháng chiến cả nên ông lại không tin có ai làm điều nhục nhã ấy. Sau khi nguyền rủa những kẻ Việt gian ông Hai lo sợ sẽ bị mụ chue nhà đuổi vì ông viết rằng đâu đâu ai cũng khinh bỉ và không chứa chấp những kẻ Việt gian. Tối hom đó ông chằn chọc không sao ngủ được, lắng nghe tiếng lào xào của mụ chủ nhà, ông cũng lo sợ tin làng Việt gian cũng đến nới đây
- Sau khi nghe tin làng được cải chính, mặt ông Hai vui tươi rạng rỡ hẳn lên. Ông chia quà cho lũ trẻ lồi lật đật đi loan tin nhà mình đã bị đốt "đốt nhẵn"
2. Tình yêu nước
- Tình yêu làng là cơ sở cho tình yêu nước. Ở nơi tản cư ông Hai ngày ngày ra phòng thông tin nghe ngóng tin tức. Khi nghe mỗi tin chiến thắng ông Hai không nén bằng niềm vui, ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá
- Khi phải lựa chọn ông đã quyêts định làng thì yêu tật nhưng làng theo tây mất rồi thì phải thù, trong cuộc trò chuyện giữa hai cha con, cả ông và thằng cu Húc đều ủng hộ cụ HCM muôn năm
---> Ông Hai là một người rất yêu làng và yêu nước vủa mình. Tình yêu đó đã được Kim Lân làm rõ qua những tình huống chuyện khác nhau