Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Chưa có thông tin , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 238
Số lượng câu trả lời 4651
Điểm GP 3
Điểm SP 54

Người theo dõi (4)

Đang theo dõi (0)


Câu trả lời:

toàn những thứ han rỉ của tổ tiên để lại, rồi đem đánh bóng… Đôn Ki-hô-tê hiên ngang tiến bước với mục đích tốt đẹp là tiễu trừ quân gian ác, giúp đỡ người lương thiện. Trí óc của hiệp sĩ đầy hoang tưởng, có lúc mê muội. Nhìn thấy những chiếc cối xay gió, lão nghĩ là bọn gian ác khổng lồ đã lao vào để giao đấu, sau khi bị thất bại, lão cho rằng đấy là pháp thuật của pháp sư Phơ-re-xtôn đã thâm thù lão, và tước lấy phần vinh quang chiến thắng của Đôn Ki-hô-tê. Với động cơ trong sáng, hồn nhiên- tiêu diệt lũ tàn ác, trừ hại cho dân – Đôn Ki-hô-tê đã dũng cảm xông vào đánh những tên khổng lồ (thực ra là những chiếc cối xay gió), mặc dù lão biết đây là cuộc giao tranh điên cuồng và không cân sức. Đơn thương độc mã, hiệp sĩ bỏ mặc lời can ngăn của Xan-chô, phóng ngựa, vừa quát mắng lũ quỉ khổng lồ, và tâm niệm nguyện cầu người tình lý tưởng- Nàng Đuyn-xi- nê-a xinh đẹp giúp mình trong lúc nguy nan. Trong giây phút tấn công kẻ thù, hình ảnh chàng hiệp sĩ sáng chói lên như một anh hùng, rất đáng kính phục. Nhưng suy nghĩ tỉnh táo một chút, người đọc lại bật cười.

Bởi vì mục đích và hành động của Đôn Ki-hô-tê là đúng đắn, cao cả tốt đẹp, còn đối tượng hướng tới của chàng lại không phải lũ quỉ khổng lồ gian ác mà chỉ là những chiếc cối xay gió hiền lành vô tội. Đầu óc chàng đầy những hoang tưởng. Cho nên cái động cơ tốt đẹp, cái hành động dũng cảm của chàng đã trở thành hão huyền, mang tính phá phách. Bản thân hiệp sĩ thì thất bại đau đớn, ngọn giáo gãy tan tành, ngựa và người ngã văng ra. Nhìn thấy hình ảnh Đôn Ki- hô-tê nằm không cựa quậy, bác giám mã sợ quá, đã phải lạy chúa trên trời. Đọc đến chi tiết này, chúng ta vừa thương vừa… không nén được tiếng cười. Song, xin bạn đọc chớ đùa cợt. Trong thời khắc nguy nan sau cuộc chiến đấu, thầy trò chàng hiệp sĩ đã tranh cãi một cách rất nghiêm chỉnh. Nghe Xan-chô có ý phê bình mình là đầu óc quay cuồng như cối xay gió, hiệp sĩ mắng lại: Thôi im đi!… Chuyện chinh chiến thường biến hóa khôn lường… ta cho rằng, và đúng là như thế, chính lão pháp sư… biến những tên khổng lồ kia thành cối xay gió để tước đi của ta niềm vinh quang đánh bại chúng… nhưng rồi… lão sẽ không thể nào đối chọi được thanh kiếm lợi hại của ta. Ý nghĩ và những lập luận của hiệp sĩ kể ra cũng sáng suốt và chặt chẽ đấy chứ? Bị quật ngã đau đớn lịm người như thế mà không một tiếng rên rỉ, xuýt xoa, trái lại vẫn cháy bỏng một niềm tin mãnh liệt, một quyết tâm hành động vì nghĩa lớn. Một bản lĩnh làm người như thế đáng khâm phục biết bao! Chỉ có điều cái bản lĩnh làm người ấy lại không bắt nguồn từ thực tế cuộc sống mà nó từ trong cuốn sách kiếm hiệp cổ xưa mà lão đã ngốn ngấu đọc rồi làm theo. Do vậy sau trận chiến thất bại ê chề, Đôn Ki-hô-tê vẫn chưa tỉnh táo để rút ra bài học. Trái lại, lão vẫn tiếp tục cuộc phiêu lưu, tiếp tục những suy nghĩ lãng mạn, hoang tưởng.

Lão tâm sự với Xan-chô: Ta không kêu đau là vì các hiệp sĩ giang hồ có bị thương như thế nào cũng không được rên rỉ, dù xổ cả gan ruột ra ngoài. Ấy thế là tấm gương những hiệp sĩ giang hồ trong sách vở lại sống dậy, giục giã và khích lệ lão. Trong khi giám mã Xan-chô Pan-xa ăn uống thì hiệp sĩ thấy chưa cần ăn vì hình như đang mải nghĩ đến trận chiến sắp tới. Cho tới đêm hôm ấy, ta vẫn không thấy hiệp sĩ ăn uống gì cả. Ngài bẻ một cành khô, rút cái mũi sắt ở chiếc cán gãy lắp vào làm thành ngọn giáo. Đêm ấy, Đôn Ki-hô-tê không ngủ để giành thời gian nghĩ đến nàng Đuyn-xi-nê-a xinh đẹp, đúng như hiệp sĩ trong sách, thức trắng nhiều đêm ròng ở trong rừng hoặc nơi hoang mạc nhớ tới tình nương của mình. Suy nghĩ và mộng mơ bay bổng đến nỗi Đôn Ki-hô-tê không thèm để ý tới giám mã Xan-chô dang đánh một giấc ngon lành. Cho tới sáng hôm sau, hiệp sĩ cũng không muốn ăn sáng, vì chàng nghĩ đến người yêu cũng đủ no rồi… Có thể nói, dưới ngòi bút vừa nghiêm chỉnh vừa bỡn cợt, trào lộng của Xéc-van-téc, hình ảnh hiệp sĩ Đôn Ki-hô tê hiện lên là một con người đầy ảo mộng. Lão mang những khát vọng đẹp, hành động dũng cảm, bản lĩnh kiên cường,… nhưng lại có những nhầm lẫn trong suy nghĩ, gàn dở trong việc làm chỉ vì lão bị ảnh hưởng quá nặng nề bởi những trang sách cũ kỹ, lỗi thời. Nhân vật Đôn Ki-hô-tê vừa buồn cười và yêu mến, vừa cảm thấy đáng trách mà lại đáng thương…

Nhân vật Xan-chô Pan-xa là nhân vật phụ làm nền cho nhân vật chính là Đôn Ki-hô-tê. Nếu Đôn Ki-hô-tê mơ mộng và ảo tưởng thì giám mã Xan-chô Pan-xa là người tỉnh táo, thực dụng. Bác là một nông dân béo lùn, nhận, làm giám mã cho Đôn Ki-hô-tê với hy vọng sau này chủ công thành danh toại, bác sẽ được làm thống đốc, cai trị vài hòn đảo, được sống cuộc đời giàu sang, phú quí. Giám mã Xan-chô Pan-xa đủng đỉnh cưỡi lừa đi theo chủ, lúc nào cũng mang theo bầu rượu và cái túi hai ngăn đựng đầy thức ăn ngon. Trước khi vào trận đánh kỳ quặc, Xan- chô Pan-xa đã nhìn rõ kẻ thù của hiệp sĩ là những chiếc cối xay gió. Bác giải thích rất rõ ràng, rành mạch: cái vật trông giống cánh tay là những cảnh quạt, khi có gió thổi, chúng sẽ quay tròn làm chuyển động cối đá bến trong. Đến lúc cố hét to để ngăn cản ông chủ cuồng si lao lên phía trước đánh nhau với cối xay gió không được, bác nông dân ấy đã bỏ mặc chủ. Thái độ này của bác vừa đúng nhưng lại vừa không đúng. Đúng là vì bác ta biết hành động của chủ là gàn dở và bác đã can ngăn. Chưa đúng vì bác không thực sự quyết tâm bằng hành động và sức khỏe của mình xông lên để ngăn cản ông chủ, hay chí ít cũng giúp đỡ để ông chủ không bị thua, thua một cách thảm hại đến mức “giáo gãy, người và ngựa ngã lăn ra”. Hay là lúc đó bác cũng hoảng loạn mà tưởng rằng đó là những tên quỉ khổng lồ nguy hiểm thật, rồi bỏ mặc cho chủ giao chiến? Phải chăng, bác nông dân chỉ quen ăn no vác nặng này nhút nhát, sợ hãi?

Sau trận đánh, Xan-chô tỏ ra là một giám mã tận tụy. Bác ta vừa xoa xuýt thương chủ, vừa cố giải thích một lần nữa, giải thích để thức tỉnh ông chủ về cái hành động kỳ quặc bắt nguồn từ những đầu óc quay cuồng như cối xay. Về việc này, Xan-chô thật đáng yêu. Bác đã hết mực phục vụ chủ. Miệng cầu chúa phù hộ cho chủ sẽ giành thắng lợi ở các cuộc giao đấu sau này. Bác vừa nâng hiệp sĩ dậy rồi đỡ cho chủ ngồi ngay ngắn trên lưng con chiến mã gầy còm. Đến những phút tiếp tục cuộc phiêu lưu sau trận đánh, giám mã Xan-chô tiếp tục nhiệm vụ theo hầu chủ. Tâm sự với hiệp sĩ, bác tỏ ra là người rất chân thành, cởi mở. Bác nói : Chúa thấu hiểu cho tôi là tôi có yếu lòng không nếu thấy ngài rên la khi bị cái gì làm cho đau đớn. Còn tôi, có thể xin thưa với ngài rằng chỉ cẩn hơi đau một chút là tôi rên rỉ ngay. Con người Xan-chô như vậy chẳng phải là tốt nết và biết thương người hay sao? Lại còn tận tụy với chủ nữa song có lẽ thương người thì ít mà bác ta… thương mình nhiều hơn. Sau khi xin phép hiệp sĩ bằng vài lời qua quýt, Xan-chô thản nhiên lấy rượu và thức ăn ra đánh chén no say chẳng nhớ gì đến lời hứa hẹn của chủ, và cảm thấy cái nghề phiêu lưu này cũng chẳng vất vả gì mà lại còn thoải mái nữa là khác. Thế rồi sau khi rượu thịt ních đầy cái dạ dày, đến tối hôm ấy, trong khi ông chủ thao thức, trằn trọc thì giám mã, người hầu cận thân tín kia ngủ một mạch cho đến sáng hôm sau, vừa tỉnh dậy đã vớ ngay lấy bầu rượu… để rồi buồn rầu vì xem chừng trên quãng đường này khó đào đàu ra ngay rượu để đổ vào cho đầy. Quan tâm tới những nhu cầu ăn ngủ là chuyện bình thường. Nhưng hình như giám mã quá chu trọng đến hai việc này, nhiều lúc quên hết, kể cả ông chủ mà mình có nhiệm vụ hầu hạ, chăm sóc thì thật là tầm thường và đáng chê trách! Bằng ngòi bút sinh động, hóm hỉnh, Xéc-van-téc đã khắc hoạ nhân vật giám mã Xan-chô với những nét ngoại hình và tính cách trái ngược hẳn với Đôn Ki-hô-tê.

Đánh nhau với cối xay gió là một cuộc phiêu lưu, một trận đánh kì quặc. Chúng ta thấy Đôn Ki-hô-tê thật nực cười, nhưng cũng đáng yêu, còn Xan-chô Pan-xa tuy có những mặt tốt đáng quí, nhưng cũng còn có nét tính cách chưa tốt, đáng chê. Như vậy, hai nhân vật này tuy rất trái ngược nhau cả về hình dáng và tính cách nhưng vẫn là đôi tri kỷ thân thiết. Hai bên đã chịu ảnh hưởng của nhau rất sâu sắc. Thật là một cặp nhân vật bất hủ trong văn chương thời Trung cổ.

Câu chuyện phiêu lưu của thầy trò Đôn Ki-hô-tê đã có ý nghĩa lớn lao, phản ánh bước chuyển mình vĩ đại của đất nước, dân tộc Tây Ban Nha trên con đường từ xã hội phong kiến lạc hậu lên xã hội tư bản chủ nghĩa đầy phức tạp, thử thách, rèn luyện con người. Cuối cùng thì, cái điên rồ của Đôn Ki-hô-tê cũng như cái mộng tưởng của Xan-chô chỉ là cái vỏ tạm thời xa lạ với bản chất của họ. Còn truyền thống đạo đức tốt đẹp của nhân dân Tây Ban Nha lại là những phẩm chất tốt đẹp của hai nhân vật trong truyện.Cảm ơn nhà văn vĩ đại Xéc-van-téc đã đưa chúng ta đên với đất nước Tây Ban Nha thơ mộng qua một trận đánh kì quặc “có một không hai” trong lịch sử nhân loại. Từ đó giúp ta càng hiểu rõ và thêm yêu quí nhân dân, đất nước Tây Ban Nha. Họ có quyền tự hào và kiêu hãnh, một đất nước có nhà văn Xéc-van- téc, có cuốn tiểu thuyết Đôn Ki-hô-tê sống bất hủ với thời gian

k mk nhé

Câu trả lời:

Phần lớn những thi phẩm bà viết là viết về người phụ nữ hoặc qua đó thể hiện cách nhìn của nữ sĩ. Điều đáng nói là đến thơ Hồ Xuân Hương, nhà thơ không hóa thân vào nhân vật trữ tình nhập vai mà trực tiếp nói lên tiếng nói tố cáo xã hội phong kiến thối nát, bất công, khẳng định vẻ đẹp tự thân của người phụ nữ, đòi nữ quyền.

Bánh trôi nước là một bài thơ vịnh vật, viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt. Vịnh về một món ăn dân gian là cái nghĩa bề nổi, tảng băng ẩn tàng dưới hình ảnh cái bánh trôi là vẻ đẹp và thân phận của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến. Cái tài, sự độc đáo của nữ sĩ Xuân Hương là chỉ với vài nét vẽ cơ bản nói lên đặc trưng của chiếc bánh trong khuôn khổ 28 chữ mà khơi gợi nên bao điều về người phụ nữ xưa, nhất là về vẻ đẹp của họ:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.


Đứng trước một người phụ nữ, ấn tượng đầu tiên của mỗi người là ở vẻ đẹp hình thức, hình thể rồi mới đến vẻ đẹp về phẩm chất, tâm hồn. Và cách nhìn của Hồ Xuân Hương cũng không nằm ngoài tâm lý, quy luật nhận thức ấy.

Câu thơ thứ nhất, với hai tính từ trắng, tròn dùng để miêu tả màu sắc và hình dáng của bánh trôi đã chuyển nghĩa, khơi gợi trí tưởng tượng của người đọc về vẻ đẹp bên ngoài của người phụ nữ. Có thể nói, mong muốn và cũng là chuẩn mực trong cách nhìn truyền thống về hình thức một người phụ nữ đẹp trước hết phải là nước da trắng: Cổ tay em trắng như ngà/ Con mắt em liếc như là dao cau…(Ca dao).

Và với Hồ Xuân Hương, đó như một nét đẹp xuyên suốt trong cách nhìn về vẻ đẹp hình thức của giới nữ trong sáng tác của tác giả (Tranh tố nữ, Vịnh cái quạt,…). Nước da trắng, nhất là trắng hồng đã nói hết được vẻ xinh xắn, tươi tắn của một người con gái. Không những thế vẻ tròn trịa của chiếc bánh còn gợi lên một vẻ đẹp hình thể tròn đầy, đầy đặn theo quan niệm thẩm mĩ truyền thống của người Việt về một vẻ đẹp viên mãn.

Vẻ trắng trẻo, nét tròn đầy ấy thật bắt mắt, thật tràn đầy sức sống, chứa đựng bao khát khao rạo rực, thể hiện cái nhìn tươi trẻ, lạc quan của nữ sĩ, và cũng là cái nhìn của nhân dân, nhất là những người dân lao động. Cũng có thể nói thêm rằng, đằng sau vẻ trắng trẻo, đầy đặn ấy còn giúp chúng ta liên tưởng đến vẻ trắng trong, phúc hậu của người phụ nữ Việt Nam, một nét đẹp tâm hồn hồn nhiên, thuần phác, mang quan niệm, cốt cách Việt.

Đến câu thơ thứ hai, ai cũng biết thông qua nói về cách luộc bánh trôi, nhất là ở việc sử dụng thành ngữ Ba chìm bảy nổi mà lại đảo câu thành ngữ cho chữ chìm nằm ở cuối, nhà thơ ngầm thể hiện sự long đong, cơ cực của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến.

Nhưng có lẽ ít ai thấy được rằng, đằng sau sự long đong cơ cực ấy là vẻ đẹp tần tảo, chịu thương chịu khó, đức hy sinh, nhẫn nại của người phụ nữ Việt Nam. Đây chính là nét đẹp truyền thống mà không ai có thể phủ nhận được.

Nói đến đây, bỗng nhiên ta nhớ đến hình ảnh người phụ nữ trong ca dao một mình nuôi con để chồng tham gia chiến trận: Cái cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non…, hay hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Tú Xương: Quanh năm buôn bán ở mom sông/ Nuôi đủ năm con với một chồng...

Ở hai câu thơ cuối, vẫn tiếp nối mạch thơ nói về số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến (cụ thể là nói đến một thân phận phụ thuộc) nhưng ý thơ tập trung vào việc khẳng định phẩm chất quý báu, vấn đề sống còn của mỗi người phụ nữ theo quan niệm đạo đức phong kiến, và cũng là vẻ đẹp truyền thống của phụ nữ Việt Nam: Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn/ Mà em vẫn giữ tấm lòng son. Hình ảnh tấm lòng son ở đây dĩ nhiên nhà thơ không dùng với ý nghĩa tượng trưng cho tấm lòng yêu nước thương dân như trong thơ Nguyễn Trãi mà tượng trưng cho tấm lòng thuỷ chung son sắt của người phụ nữ, nhất là người vợ.

Chẳng phải từ xa xưa, đạo tam tòng tứ đức buộc người phụ nữ khi có chồng phải một mực thuỷ chung mà ngay cả trong hiện tại hay ở bất kỳ thời đại nào thì đây luôn là phẩm chất quý báu của người phụ nữ được mọi người trong xã hội coi trọng, đề cao. Điều đáng chú ý trong hai câu thơ cuối của bài thơ là Hồ Xuân Hương đã khẳng định vẻ đẹp thuỷ chung của người phụ nữ với thái độ đầy tự tin, tự hào qua cách diễn đạt bằng cặp quan hệ từ đối lập: mặc dầu… mà. Có thể nói, dù hoàn cảnh, số phận người phụ nữ có long đong, lận đận, dù phải sống với thân phận phụ thuộc nhưng mẫu số chung vững bền ở họ là tấm lòng thuỷ chung sáng ngời.

Gần như cứ qua mỗi câu thơ, nhà thơ lại mở ra cho chúng ta thấy được một vẻ đẹp khác của người phụ nữ, mà lại rất đặc trưng cho vẻ đẹp truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Qua hình ảnh ẩn dụ là bánh trôi nước, từng vẻ đẹp của người phụ nữ được khơi gợi thật tinh tế. Nhìn về vẻ đẹp của người phụ nữ, Hồ Xuân Hương đã ca ngợi, khẳng định ở cả vẻ đẹp hình thức lẫn vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn, tạo cho độc giả có một cái nhìn về một vẻ đẹp hoàn mỹ của người phụ nữ Việt Nam. Đề cao vẻ đẹp của người phụ nữ với một thái độ khẳng định đầy tự tin chính là cốt lõi nhân văn, là bản lĩnh và cũng là phong cách thơ Hồ Xuân Hương. k mk nhé