Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Chưa có thông tin , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 1
Số lượng câu trả lời 547
Điểm GP 85
Điểm SP 434

Người theo dõi (77)

le thu thao
$Mr.VôDanh$
Quang Ha Minh

Đang theo dõi (3)

_silverlining
Syndra楓葉♪
Mai Hà Chi

Câu trả lời:

Con người từ khi sinh ra đã có một sự thông minh vượt bậc so với các loài động vật khác. Bởi thế mà họ đã sáng tạo ra nhiều thứ để nhằm phục vụ cho cuộc sống của mình. Một trong những phát minh có tính ứng dụng cao của con người chính là những vật dụng thiết yếu hàng ngày. Trong đó có chiếc kính đeo mắt.

Chiếc kính đầu tiên được ra đời ở Ý vào năm 1920. Chiếc kính thô sơ nhất ban đầu chỉ gồm hai mắt kính nối với nhau bằng hai sợi dây rồi đè lên sống mũi. Vào năm 1930, để việc mang kính được dễ dàng hơn, một chuyên gia quang học ở Luân Đôn đã sáng tạo ra hai gọng kính. Có nhiều loại kính khác nhau tuy nhiên về cấu tạo chung của chúng là giống nhau. Kính mắt bao gồm hai bộ phận chính là tròng kính (mắt kính) và gọng kính. Tròng kính được làm từ nhựa tổng hợp hoặc thủy tinh khúc xạ ánh sáng. Tròng kính có thể chống được các tia UV, tia cực tím của ánh sáng Mặt Trời. Tròng kính có hình tròn hoặc vuông, có kích thước sao cho phù hợp với gọng kính. Thường trước khi chọn tròng kính, người mua sẽ chọn gọng kính trước. Gọng kính chiếm 80% vẻ đẹp của chiếc kính. Gọng kính là bộ phận nâng đỡ tròng kính và làm khung cho mỗi chiếc kính. Thông thường, gọng kính được làm từ nhựa bền, nhẹ, có nhiều màu sắc hoặc có thể làm bằng kim loại. Gọng kim loại cứng cáp và chắc chắn hơn gọng nhựa, tuy nhiên do nặng hơn cũng như giá thành cao hơn nên gọng kim loại ít được ưa chuộng.Ngày nay còn có loại gọng kính được làm bằng titan nhẹ bền đẹp nhưng giá thành khá cao nên cũng chưa phổ biến. Ngoài ra, kính còn các bộ phận, chi tiết nhỏ như ốc, vít.. dể kết nối các bộ phận với nhau.

Từ khi ra đời, chiếc kính đã có nhiều chủng loại khác nhau, Có kính râm, kính thuốc, kính thời trang… Tùy chức năng của người dùng mà lựa chọn các loại kính khác nhau. Chẳng hạn kinh thuốc dùng cho những người có tật về mắt: cận, viễn, loạn. Đa số người dùng kính để khắc phục những bệnh về mắt của mình. Kính râm là loại kính khá khác so với kính thuốc. Nếu tròng kính của kính thuốc thường nhỏ, dày thì tròng kính của kính râm to hơn, mỏng hơn. Tròng kính ủa kính thuốc thường làm bằng thủy tinh thì kính râm thường là nhựa tổng hợp, có màu sắc bắt mắt. Kính râm có khả năng chống tia UV cao hơn so với các loại kính khác. Vì thế mà nó được ưa chuộng khi đi ra ngoài đường đặc biệt là những ngày nắng nóng. Kính râm có kiểu dáng, màu sắc đa dạng hơn kính thuốc rất nhiều. Chúng có màu sắc khá bắt mắt, không đơn giản như kính thuốc. Còn loại kính thời trang thì được dùng để tạo dáng cho mắt và khuôn mặt đẹp hơn, hợp thời trang hơn. Loại kính này có thể bắt gặp nhiều trên các tạp chí thời trang hay shot hình mẫu ảnh…

Mỗi loại kính đều có cách bảo quản riêng để kính được bền, đẹp, lâu hơn. Khi lấy và đeo kính cần dùng hai tay. Sau khi dùng nên lau chùi cẩn thận và cất vào hộp đựng kính để tránh rơi vỡ. Mắt kính làm bằng các chất liệu này rất dễ vỡ và trầy xước. Khi tròng kính bị trầy xước không chỉ ảnh hưởng đến thẩm mỹ mà còn ảnh hưởng đến tầm nhìn của người dùng. Lâu ngày, kính cần được vệ sinh bằng dung dịch chuyên dụng. Ngày nay, có rất nhiều kiểu dáng mẫu mã khác nhau của kính mắt để phù hợp với thẩm mỹ cũng như nhu cầu tính thẩm mỹ cao của người tiêu dùng. Chiếc kính mắt ngày càng đa dạng hơn. Có thể thấy được sự sáng tạo của con người ngày càng phát triển. Việc sử dụng kính ngày càng cần thiết đối với con người. Với sự phát triển của giáo dục cũng như các yếu tố khác như ngành điện tử phát triển như vũ bão tỉ lệ người mắc các tật về mắt ngày càng tăng đặc biệt là trẻ nhỏ, nhu cầu về sử dngj kính thuốc vì thế cũng tăng lên. Không thể phủ định lợi ích mà chiếc kính mắt đem lại cho con người. Đây được xem là phát minh có tính ứng dụng cao trong lịch sử nhân loại.

Chiếc kính mắt là vật dụng không thể thiếu của con người ngày nay. Với những công dụng, tiện ích mà nó đem lại, chiếc kính ngày càng trở nên quen thuộc với con người. Phải nói rằng, nó là một trong những vật dụng hữu ích cho con người thời đại ngày nay.

Câu trả lời:

Trong những vật dụng mà chúng ta thường dùng thì chiếc kính đeo mắt rất cần thiết đối với mọi người thuộc các lứa tuổi khác nhau. Nếu nói rằng đôi mắt là cửa sổ tâm hồn của mỗi chúng ta thì ắt rằng những cặp kính chính là những người giúp việc tận tâm, những người bảo vệ vững chắc, những vật trang trí duyên dáng cho khung cửa mộng mơ ấy.

Quả không quá khi nói như vậy về cặp kính đeo mất bởi kính, có rất nhiều loại và rất nhiều tác dụng, phù hợp với hầu hết nhu cầu của mọi người. Với những người bị bệnh về mắt như cận thị, viễn thị, loạn thị kính giúp họ khắc phục được điểm hạn chế của bản thân. Người cận thị có thể nhìn được những vật ở xa, người viễn thị thì nhờ kính mà nhìn được những vật ở gần… Đối với người làm những công việc đặc thù như bơi, trượt tuyết, đi xe máy tốc độ cao,… kính lại giúp mắt họ tránh khỏi nước, tuyết, gió, bụi,… Những người không bị bệnh về mắt, không có những hoạt động trên, khi ra đường cũng nên mang theo một cặp kính: để tránh nắng chói và gió bụi. Thậm chí, có những người sử dụng kính như một vật trang trí đơn thuần. Giá trị thẩm mĩ của kính có được bởi sự đa dạng của kiểu dáng và màu sắc.

Dù chủng loại phong phú như vậy nhưng về cơ bản, cấu tạo của các cặp kính rất giống nhau. Một chiếc kính đeo mắt gồm có hai bộ phận: Tròng kính và gọng kính. Gọng kính làm khung cho kính và là bộ phận nâng đỡ tròng kính. Gọng kính cũng gồm hai phần được nối với nhau bởi một khớp sắt nhỏ. Phần sau giúp gá kính vào vành tai. Phần trước đỡ lấy tròng kính và giúp tròng kính nằm vững trước mắt. Gọng kính có thể được làm bằng kim loại nhưng phổ biến nhất vẫn là gọng nhựa bền, nhẹ. Bộ phận quan trọng nhất của kính – tròng kính – thì không thể thay đổi cấu tạo gốc và có một tiêu chuẩn quốc tế riêng. Hình dáng tròng kính rất phong phú, nó phụ thuộc vào hình dáng gọng kính: tròn, vuông, chữ nhật… Tròng kính có thể làm bằng nhựa chống trầy hay thủy tinh nhưng đều cần tuân theo quy tắc chống tia uv và tia cực tím (hai loại tia được phát ra bởi mặt trời, rất có hại cho mắt). Ngoài ra, một chiếc kính đeo mắt còn có một số bộ phận phụ như ốc, vít… Chúng có kích thước rất nhỏ nhưng lại khá quan trọng, dùng để neo giữ các bộ phận của chiếc kính.

Bên cạnh loại kính gọng còn có loại kính áp tròng. Đó là một loại kính đặc biệt, nhỏ, mỏng, được đặt sát vào tròng mắt. Riêng với loại kính này phải có sự hướng dẫn sử dụng tỉ mỉ của bác sĩ chuyên ngành.

Việc sử dụng kính tác động rất lớn đến sức khoẻ của mắt bởi vậy cần sử dụng kính đúng cách. Để lựa chọn 1 chiếc kính phù hợp với đôi mắt, cần phải theo tư vấn của bác sĩ. Không nên đeo loại kính có độ làm sần vì loại kính này được lắp hàng loạt theo những số đo nhất định nên chưa chắc đã phù hợp với từng người. Mỗi loại kính cũng cần có cách bảo quản riêng để tăng tuổi thọ cho kính. Khi lấy và đeo kính cần dùng cả hai tay, sau khi dùng xong cần lau chùi cẩn thận và bỏ vào hộp đậy kín. Kính dùng lâu cần lau chùi bằng dung dịch chuyên dụng. Đối với loại kính tiếp xúc trực tiếp với mắt như kính áp tròng, cần phải nhỏ mắt từ sáu lần đến tám lần trong vòng từ mười đến mười hai tiếng để bảo vệ mắt. Kính áp tròng đưa thẳng vào mắt nên phải luôn luôn ngâm trong dung dịch, nếu không sẽ rất dễ bám bụi gây đau mắt, nhiễm trùng các vết xước… Trong quá trình học tập, làm việc, đeo kính phù hợp sẽ giúp chúng ta tránh khỏi nhức mỏi mắt, đau đầu, mỏi gáy, mỏi cổ…

Đeo một chiếc kính trên mắt hẳn ai cũng tò mò muốn biết sự ra đời của kính? Đó là cả một câu chuyện dài. Vào năm 1266 ông Rodger Becon người Italia đã bắt đầu biết dùng chiếc kính lúp để có thể nhìn rõ hơn các chữ cái trên trang sách. Năm 1352, trên một bức chân dung người ta nhìn thấy một vị hồng y giáo chủ đeo một đôi kính có hai mắt kính được buộc vào một cái gọng. Như vậy chúng ta chỉ có thể biết được rằng đôi kính được làm ra trong khoáng thời gian giữa năm 1266 và 1352. Sự ra đời của những cuốn sách in trở thành động lực của việc nghiên cứu, sản xuất kính. Vào thế kỷ XV những căp kính chủ yếu được sản xuất tại miền bắc nước Ý và miền nam nước Đức – là những nơi tập trung nhiều người thợ giỏi. Năm 1629 vua Charles I của nước Anh đã ký sắc lệnh thành lập hiệp hội của các thợ làm kính mắt. Đến năm 1784, ông Bedzamin Franklin người Đức đã sáng tạo ra những đôi kính có hai tiêu điểm.

Chiếc mắt kính đeo mắt là một vật dụng quen thuộc với đời sống hằng ngày. Nếu biết cách sử dụng và bảo quản tốt, kính sẽ phát huy tối đa công dụng của mình. Hãy cùng tìm hiểu về kính để có thể biến “lăng kính” của “cửa sổ tâm hồn” trở nên phong phú và hoàn thiện hơn.

Câu trả lời:

Quán Nghinh Hương (thuộc xã Hương Ngải, huyện Thạch Thất), là một công trình không chỉ có giá trị độc đáo về mặt kiến trúc mà còn có giá trị sâu sắc về mặt văn hóa. Năm 2009, quán Nghinh Hương đã được UBND thành phố Hà Nội công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật. Làng cổ Hương Ngải hay đất Kẻ Ngái không chỉ được biết đến bởi những phiên chợ … chi tiết >>

Quán Nghinh Hương (thuộc xã Hương Ngải, huyện Thạch Thất), là một công trình không chỉ có giá trị độc đáo về mặt kiến trúc mà còn có giá trị sâu sắc về mặt văn hóa. Năm 2009, Quán Nghinh Hương đã được UBND thành phố Hà Nội công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật.

Nguồn gốc

Làng cổ Hương Ngải hay đất Kẻ Ngái không chỉ được biết đến bởi những phiên chợ Ngái đặc trưng, mà làng Ngái xưa còn nổi tiếng là mảnh đất có truyền thống học hành, khoa cử. Truyền thống hiếu học từ xưa của làng Ngái thể hiện ngay từ những công trình kiến trúc cổ. Ngoài các công trình tín ngưỡng dân gian như đình làng, quán làng, chùa, miếu… còn có hệ thống các văn chỉ, võ chỉ, văn bia, văn chuông được lưu giữ đến ngày nay.

Đặc biệt là quán Nghinh Hương được khởi dựng trong sự phát triển của làng Hương Ngải vào khoảng đầu thế kỷ thứ 11. Quán Nghinh Hương được xây dựng để tôn thờ 3 vị Thành Hoàng họ Chu, là nhân vật lịch sử có thật, những người đã có công lớn trong việc khai phá, mở mang đồng bằng Bắc Bộ.

Xưa kia, Quán Nghinh Hương là nơi các sĩ tử Hương Ngải đến học tập, ôn thi và dùi mài kinh sử. Đây còn là nơi đưa tiễn các sĩ tử lên kinh dự thi, lại cũng là nơi nghênh đón tân khoa vinh quy bái tổ về làng. Người làng Hương Ngải vẫn còn truyền tụng câu ca:

“Chúc sĩ tử ứng thí tranh khôi

Nghinh tân khoa hồi hương bái tổ”

Quán Nghinh Hương vừa là một công trình văn hoá đáp ứng nhu cầu tâm linh, vừa thể hiện ước nguyện khoa bảng của dân làng, đồng thời, đây cũng là nơi qua các giá trị kiến trúc, truyền tải được khát vọng của con người.

Kiến trúc

Quán Nghinh Hương là một di tích có giá trị nhiều mặt về lịch sử. Kiến trúc của ngôi quán khá lạ so với các kiểu kiến trúc truyền thống khác, người xưa đã dựa vào sự biến thiên của Dịch học để tạo nên một kiểu kiến trúc độc đáo, dù không đồ sộ, nguy nga nhưng hàm chứa một khát vọng: luôn phát triển (nhất tam biến, tam biến cửu:1 gian thành 3, 3 gian thành 9). Nhìn bên ngoài, quán Nghinh Hương trông như 1 gian nhà, nhưng vào bên trong lại biến thành 3 gian, từ 3 gian lại biến thành 9 gian nhỏ, mà con số 9 còn được gọi là số Lão dương, tượng trưng cho sự bền chắc.

Đặc biệt hơn, theo “Tinh toạ đồ” thì trung tâm của ngôi quán ứng với chòm sao Bắc Đẩu (hay còn gọi là sao Thất Tinh). Chòm sao Bắc Đẩu là chòm sao sáng nhất trên bầu trời, tượng trưng cho văn chương, thi hoạ.

Tổ tiên Hương Ngải đã trồng 7 cây linh thụ (4 trước, 3 sau), tượng trưng cho 7 ngôi sao trong chòm Bắc Đẩu gồm: Tham lang, Cự môn, Lộc tồn, Văn khúc, Liêm Trinh, Vũ khúc, Phá quân. Cũng theo “Tinh toạ đồ” thì trong vũ trụ có vô số những ngôi sao, nhưng chòm sao Bắc Đẩuchòm sao chủ tinh. Đây là chòm sao rực sáng, đóng vai trò trung tâm, các ngôi sao vệ tinh luôn luôn quanh nó. Trong sách “Luận ngữ”, Khổng Tử đã nói: “ví chính dĩ đức thí như bắc thuần cư kì sở nhi chúng tinh củng chi”,nghĩa là: “dùng Đức điều hành chính sự ví như ngôi sao Bắc Đẩu toạ lạc đúng vị trí của mình thì các ngôi sao khác ắt phải chầu lại”. Và quán Nghinh Hương toạ lạc đúng vị trí trung tâm của chòm sao này, là nơi đưa – đón hiền tài của làng, với mong mỏi tài năng, đức độ của họ sẽ tỏa sáng như sao Bắc Đẩu.

Nghinh Hương quán còn gắn với 2 trong 5 yếu tố của Ngũ hành là: Thuỷ (giếng nước) và Mộc (cây cổ thụ) để nhắc nhở đời sau nhớ tới cội nguồn: người có tổ tiên như cây có gốc, như nước có nguồn; cây có gốc thì cành lá xum xuê, nguồn nước có sâu thì nhánh sông mới dài rộng; người có tổ tiên, cội rễ thì con cháu mới phát triển mãi muôn đời về sau.

Cho đến nay, trải qua mưa nắng, quán Nghinh Hương không còn giữ được nguyên trạng như ngày đầu khởi dựng, xong di tích này vẫn giữ được nét đặc trưng tiêu biểu của ngôi quán vùng xứ Đoài, hội tụ đủ 3 yếu tố Thiên – Địa – Nhân giúp các nhà nghiên cứu tìm hiểu về đặc trưng vùng miền Thủ đô.

Câu trả lời:

Để tạo nên sự phong phú và đa dạng cho nền văn học Việt nam, mỗi nhà thơ đều chọn cho mình một đề tài sáng tác riêng tuy nhiên trong nền văn học 1945 – 1975 ít có nhà thơ nào không dành hết tình cảm và tâm huyết của mình cho đề tài cách mạng, quê hương đất nước. Đó là bức tranh của những ngày tháng gian khổ mà hào hùng, đó là khoảng thời gian xảy ra biết bao nhiêu thảm cảnh: bom đạn, máu chảy chết chóc…nhưng nhân dân ta vẫn kiên cường đấu tranh dành thắng lợi. Đặc biệt nổi bật trong bức tranh quê hương, bức tranh cách mạng ấy là hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ với những vẻ đẹp phẩm chất cao quý. Có thể nói chính những con người đó đã tạo nên đất nước ngày hôm nay.

Với những phẩm chất của mình anh bộ đội cụ Hồ đi vào thơ cách một cách tự nhiên và đi vào trong lòng người đọc thành một bức tượng đài bất hủ trong trái tim mỗi con người. Những anh bộ đội ấy tuy xuất thân khác nhau nhưng họ lại có những phẩm chất giống nhau, tiêu biểu cho phẩm chất có những con người Việt Nam anh hùng ta. Vẻ đẹp riêng và vẻ đẹp chung của những người lính tạo nên hình ảnh chung cho anh bộ đội Việt Nam.
Trước hết anh bộ đội Việt Nam được khắc họa qua vẻ đẹp ngoại hình:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
(Tây Tiến – Quang Dũng)

Đó là hình ảnh ngoại hình của người lính. Câu thơ có hai cách hiểu những người lính ấy do trải qua điều kiện chiến đấu gian khổ khó khăn thiếu thốn cho nên rụng hết tóc. Thân hình gầy gò ốm nhưng lại không hề yếu. Những nét ngoại hình ấy còn giúp cho chúng ta thấy được hình ảnh những anh bộ đội oai hùng giống như một vị chúa sơn lâm của rừng xanh vậy. Dường như bao nhieu vất vả bao nhiêu gian nan được khắc tạc in dấu trên ngoại hình của những người lính ấy. Ngoại hình xấu xí ấy nhưng lại trở thành một vẻ đẹp thể hiện sự kiên trung vượt qua gian nan khó khăn của những anh bộ đội cụ Hồ.

Những người lính ấy không chỉ “đẹp” về ngoại hình mà còn đẹp về tâm hồn và phẩm chất nữa.

Trong cuộc chiến tranh giành thắng lợi cho dân tộc thì những anh bộ đội của chúng ta phải mang trong mình một lý tưởng một khát vọng lớn lắm thì mới có thể tạo nên những chiến thắng oanh liệt như thế. Người lính Tây Tiến của Quang Dũng tiêu biểu cho những lý tưởng khát vọng của người lính Việt nam thời bấy giờ:

“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Hay

“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi”

Những người lính ấy ra đi với khát vọng giành lại độc lập tự do cho tổ quốc thân yêu, họ ra đi không hẹn ngày trở lại. Phải chăng người lính muốn nhắc đên sự hi sinh ở đây dù thế nào thì cũng quyết hi sinh để đổi lấy độc lập hòa binh cho đất nước. Đó không phải là lý tưởng cao đẹp lắm hay sao?

Hay Nguyễn Đình Thi cũng từng viết:

“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”

Hành động “đầu không ngoảnh lại” thể hiện sự quyết tâm ra đi của những người lính. Vẫn biết đằng sau thềm nắng lá rơi đầy. Phải chăng cái thềm nắng lá rơi đầy kia cũng nhiều như lý tưởng ra trận của người chiến sĩ bộ đội.

Nguyễn Khoa Điềm cũng nói về lý tưởng và khát vọng của người lính – người con trai con gái Việt nam rất đẹp:

“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm đất nước
………. .
Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao huyền thoại”

Những người lính Việt nam không chỉ đẹp về lí tưởng mà còn đẹp về sự anh dũng dũng cảm trong chiến trường:
Nhà thơ Quang Dũng đã rất thành công khi nói về sự anh dũng chiến đấu của người lính:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Quang Dũng miêu tả cảnh hùng vĩ của Tây Bắc nhưng qua cái hùng vĩ man dại ấy ta lại cảm nhận được cái anh dũng của người chiến sĩ. Những người lính ấy đã vượt lên trên cả những dốc thăm thẳm khúc khuỷu kia. Phải nói nếu không có sự anh dũng thì làm sao có thể vượt lên trên những dôc núi heo hút thăm thẳm kia.

Hay trong bài thơ tiểu đội xe không kính Phạm Tiến Duật cũng viết:

“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rơi kính vỡ đi rồi
…….
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái”

Từ những vần thơ nhẹ nhàng, hóm hỉnh ta vẫn thấy được từ trong bom rơi đạn nổ những chiếc không kính vẫn lao tới kẻ thù. Người cầm lái là những dũng cảm xuyên qua bom đạn cầm chắc tay lái để đưa các đồng chí của mình đến nơi an toàn. Dường như con đường như chạy thẳng vào tim người lính. Đó là con đường của niềm tin vào cách mạng chiến thắng.

Đến cái hi sinh của những người lính ấy cũng trở thành những bức tượng đài vô cùng đẹp. Các nhà thơ đã xây dựng lên những bức tượng đài người lính bằng thơ:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Đó là sự hi sinh oanh liệt nhưng rất đỗi trang trọng hào hùng. Tố Hữu cũng nói về sự hi sinh của người lính trở thành bất tử. Cho đến khi mất đi rồi người lính vẫn không thể nào ngã xuống, dáng đứng bất tử ấy làm nên dáng đứng Việt Nam:

“Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vòng”

Hay là cái chết bất tử về với đất mẹ dịu hiền như những người lính trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Đình Thi:

“Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về”

Hay cũng có thể là sự hi sinh vô cùng nhẹ nhàng, coi cái chết nhẹ như lông hồng:

“Con nhớ anh con, người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con”

Dù chiến đấu khó khăn nhưng họ vẫn có một đời sống tâm hồn vô cùng lãng mạn:

“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Hay Nguyễn Đình Thi cũng viết:
“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”

Đó là những tình cảm tốt đẹp của người lính. Mỗi bước đường gian nan quyết liệt nhưng anh không bao giờ quên nhớ đến người thương của mình. Càng vất vả bao nhiêu thì người lính càng quý những giấy phút nhớ nhung ấy bấy nhiêu.

Cuộc sống gian nan vất vả họ không chỉ nhớ đến người yêu mà họ còn là những người sống yêu thương chan hòa, thật thà chất phác. Ở đó ta thấy một tình đồng chí gắn bó keo sơn:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Tôi với anh đôi người xa lạ
Từ phương trời chẳng hẹn quen nhau”

Không những thế họ còn là những người lạc quan yêu đời, sống vui vẻ trong tình đồng chí ấy:

“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng
……. .
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”

Không những thế mà họ còn có một tình quân dân keo sơn gắn bó:

“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
….
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

Tất cả những điều đó là vẻ đẹp của những người lính, những anh bộ đội cụ Hồ trong thơ ca Việt Nam từ 1945- 1975. Qua những hình ảnh của những người lính ta thêm yêu những phẩm chất đáng quý ấy. Đồng thời ta trân trọng nền hòa bình và biết ơn họ rất nhiều. Trong tim mỗi con người Việt Nam những người lính vô danh ấy là một bức tượng đài bất hủ.

Câu trả lời:

Cách mạng tháng Tám thành công đã mở đầu một kỉ nguyên mới trong lịch sử dân tộc. Đồng thời mở ra một kỉ nguyên mới cho văn học Việt Nam – một nền thơ ca phản ánh sự bùng nổ toàn diện sức mạnh tiềm tàng của dân tộc, trước vận hội lịch sử đã tích tụ qua nhiểu thế kỉ.

Đọc thơ ca Việt Nam 1945 – 1975, chúng ta thấy cuồn cuộn niềm vui của hàng triệu người ra trận, thấy được những mất mát đau thương, những khát khao, ước vọng chân thành… Ba mươi năm liên tục đấu tranh chống kẻ thù cũng là khoảng thời gian văn học phát triển mạnh mẽ không ngừng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Văn học lấy đề tài chiến tranh, viết về chiến tranh cách mạng. Thơ cũng như văn, hết lòng ca ngợi người anh hùng, người lính, người mẹ, thanh niên xung phong… Tất cả hiện lên trong tác phẩm với mọi tầng lớp, lứa tuổi, dân tộc… y như thật ở trên đời. Và họ đẹp – cái đẹp tiêu biểu cho cả thời đại. Cái đẹp ấy kết tinh đậm đà ở hình tượng anh bộ đội cụ Hồ – anh vệ quốc quân, anh giải phóng quân. Bởi các anh chính là người anh hùng suốt hai cuộc kháng chiến trường kì.

Nội dung:

Dân tộc ta đã tiến hành 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và đã giành thắng lợi vẻ vang. Lẽ tất nhiên, ở đất nước mà hơn ba mươi năm không dời tay súng, hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ là hình ảnh con người đẹp nhất, đáng yêu nhất là niềm tự hào lớn của cả dân tộc. Những chiến sỹ bộ đội cụ Hồ anh vệ quốc quân trước kia, anh giải phóng quân sau này đã đi qua 2 cuộc kháng chiến và viết lên những chiến công chói lọi: Điện Biên Phủ, cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968, Điện Biên Phủ trên không, đặc biệt là cuộc tổng tiến công và nổi dậy vĩ đại mùa xuân 1975 mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Những chiến công đó đã đi vào lịch sử như những Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa của thế kỉ XX. Đó là bước đi của người anh hùng tiếp nối con đường rực rỡ của cha ông, đang nhịp bước cùng thời đại với tư cách của “Người lính đi đầu” . Vì thế, trong cuộc sống cũng như trong thơ ca, hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ bao giờ cũng chiếm chỗ cao nhất trong tâm hồn quần chúng và trong trái tim của các nhà thơ.

Trước hết, trong thơ ca đã giới thiệu với chúng ta hình ảnh trung thực của anh bộ đội cụ Hồ thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Là con đẻ của nhân dân lao động nghèo khổ, anh ra đi từ những miền quê nghèo khắp mọi miền đất nước:

“Quê hương anh đất mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.

(Đồng Chí – Chính Hữu)

Từ những con người vốn xa lạ, khi vào bộ đội các anh đã gắn bó với nhau trong tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”.

(Đồng Chí – Chính Hữu)

Anh mang bản chất chất phác, giản dị, trung thực. Thực ra anh là người nông dân mặc áo lính.

“Anh chiến sỹ hiền lành

Tỳ tay trên mũi súng”.

(Cá nước – Tố Hữu)

Xuất thân từ người lao động, anh bộ đội cụ Hồ rất giàu nghị lực. Anh dẻo dai bền bỉ hành quân vượt qua “trăm suối ngàn khe”, vượt suốt, trèo đèo trong cảnh “ngày nắng đốt” chói chang, những “đêm mưa dầm dề, gió buốt chân tay” quanh năm suốt tháng. Không một khó khăn, trở lực ngăn được bước tiến của anh:

“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều

Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo

Núi không đè nổi vai vươn tới

Lá ngụy trang reo với gió đèo”.

(Lên Tây Bắc – Tố Hữu)

Nói tới người chiến sỹ là nói đến lòng kiên cường, dũng cảm tuyệt vời. Anh là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại mới. Đáp lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch: “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Anh đánh giặc bằng những vũ khí thô sơ nhất của quê hương với khẩu hiệu: Cướp súng giặc để giết giặc:

“Lột sắt đường tàu

Rèn thêm dao kiếm

áo vải chân không

Đi lùng giặc đánh”.

(Nhớ – Hồng Nguyên)

Trong buổi đầu của cuộc kháng chiến ấy, các anh phải chịu đựng bao gian khổ, khó khăn: Thiếu từ những trang bị tối thiểu “áo anh rách vai”, “Quần tôi vài mảnh vá”, “Chân không giầy”, thêm vào đó thiếu thuốc men – bệnh số rét rừng hành hạ. Khó khăn chồng chất vẫn không làm mất đi dáng vẻ oai hùng, tâm hồn mơ mộng, lãng mạn của người lính Tây Tiến:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùng

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

(Tây Tiến – Quang Dũng)

Không thể tính được những hy sinh mất mát mà các anh phải trải qua và chịu đựng:

“Khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt

Máu trộn bùn non

Gan không núng

Chí không mòn

Những đồng chí thân chôn làm giá súng

Đầu bịt lỗ chân mai

Băng mình qua núi thép gai

ào ào vũ bão ”

(Hoan hô chiến sỹ Điện Biên – Tố Hữu)

Nguồn gốc sức mạnh để giúp các anh vượt lên tất cả là lòng yêu nước thiết tha, lòng căm thù giặc cháy bỏng. Trước sự hy sinh của người đồng đội, đau thương chút lên đầu ngọn súng, chỉ còn một sự trả thù cao cả:

“Mai mốt bên cửa rừng

Anh có nghe súng nổ

Là chúng tôi đang cố

Tiêu diệt kẻ thù chung”

(Viếng bạn – Hoàng Lộc)

Tình yêu thương của người chiến sỹ là tình yêu lớn. Trong đó riêng, chung kết hợp hài hòa. Tâm tư, lý tưởng giản dị mà sâu sắc:

“Con ra tiền tuyến xa xôi

Yêu bầm yêu nước cả đôi mẹ hiền”.

(Bầm ơi – Tố Hữu)

Đến với nhân dân “Các anh về mái ấm nhà êm/ Các anh về xôn xao làng bé nhỏ“, (Bao giờ trở lại – Hoàng Trung Thông). Anh đi đến đâu, ở đó có sự sống và niềm vui:

“Anh về cối lại vang rừng

Chim reo quanh mái, gà mừng dưới sân

Anh về, sáo lại ái ân

Đêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca…”

(Lên Tây Bắc – Tố Hữu)

Là con đẻ của nhân dân, được nhân dân yêu thương, che chở, các anh đã cùng với toàn dân tộc làm nên một huyền thoại của thời đại, quyết định số phận thực dân Pháp ở lòng chảo Điện Biên Phủ bằng chiến thắng vang dội:

“Đánh một trận dập đầu quỷ dữ

Sáng nghìn năm lịch sử Điện Biên”

(Hoan hô chiến sỹ Điện Biên – Tố Hữu)

Pháp thua, Mỹ lại nhảy vào Miền Nam, các anh lại phải cầm súng đánh Mỹ. Người chiến sỹ trong thời đại chống Mỹ vẫn mang vẻ đẹp của thế hệ chống Pháp nhưng có tầm vóc cao đẹp hơn. Vẫn là anh, con người hết sức bình dị mà rất đỗi kiên cường:

“Vẫn đôi dép lội chiến trường

Vẫn vành mũ lá coi thường hiểm nguy”

(Tiếng hát sang xuân – Tố Hữu)

Đó là sự tiếp nối tự nhiên của hai thế hệ cầm súng mà sức mạnh nhân lên cùng năm tháng. Đó là sự kế thừa của truyền thống “ Bốn mươi thế kỉ cùng ra trận ” – ( Tố Hữu). Tâm hồn người chiến sỹ hôm nay náo nức lời kêu gọi của Bác Hồ: ” Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi “. Tâm hồn ấy còn vang vọng tiếng thơ kiên cường của Lý Thường Kiệt, lời hịch sang sảng của Trần Quốc Tuấn, khí thế oai hùng của Tây Sơn “Rạo rực lòng ta trống trận Quang Trung” – (Tố Hữu). Có một cái gì rất khác ở anh Vệ quốc quân thời chống Pháp. Đó là chiều sâu mới, tầm cỡ mới của ý thức với dân tộc và thời đại:” Ta vì ta ba chục triệu người/ Cũng vì ba ngàn triệu trên đời” – (Tố Hữu). Anh đánh Mỹ với một sức mạnh phi thường:

” Những dũng sỹ đâm lê Núi Thành

Mắt tìm thù sao bay rực rỡ

Rượt đuổi thù chân như chiến mã

Đâm chết thù sức núi dồn tay”.

(Những dũng sỹ đâm lê Núi Thành – Phạm Hổ)

Lòng căm thù của anh có thêm ” nghìn độ lửa thiêu” và trở thành vô địch:

” Lấy nỗi đau vô cùng làm sức mạnh vô biên

Bước truy kích đạp trăm rào gai sắc”.

( Bài thơ về hạnh phúc – Dương Hương Ly)

Niềm tự hào cũng đạt tới đích cao vời vợi, anh đã trở thành nhân vật huyền thoại của thời đại mới:

” Con đứng đây dưới Trường Sơn hùng vĩ

Mười tám sức trai luyện lửa thành đồng

Chân như pha sắt, hồn pha thép

Ngẩng cao đầu thở gió biển đông

(Phan Minh Đạo)

Con đường Trường Sơn – con đường huyết mạch nối hậu phương lớn với tiền tuyến lớn – Nơi đế quốc Mỹ chút xuống không biết bao nhiêu tấn bom đạn và chất độc hóa học, lại là con đường gắn bó máu thịt với các anh bộ đội lái xe. Bom đạn kẻ thù, đã làm cho những chiếc xe bị phá hủy đến trơ trụi, mất đi mọi thứ bên ngoài:

” Không kính, rồi xe không đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước”

Nhưng trên những chiếc xe ấy, người chiến sỹ vẫn ” Ung dung buồng lái ta ngồi/Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng “. Bất chấp bom đạn kẻ thù:

” Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim”

( Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật)

” Có một trái tim”- trái tim đó chính là tình yêu thương mênh mông với đồng bào, đồng chí ở Miền Nam, đó là lòng căm thù giặc cháy bỏng. Dường như cả những kỷ niệm tuổi thơ cũng tiếp thêm sức mạnh, niềm tin cho người chiến sỹ chiến đấu và vượt lên mọi khó khăn thử thách. Ta hãy nghe tâm sự của một chiến sỹ với người bà kính yêu ở hậu phương:

” Cháu chiến đấu hôm nay

Vì lòng yêu tổ Quốc

Vì xóm làng thân thuộc

Bà ơi, cũng vì bà

Vì tiếng gà cục tác

ổ trứng hồng tuổi thơ.

( Tiếng gà trưa – Xuân Quỳnh)

Chính vì được giác ngộ lý tưởng sâu sắc, ngươi chiến sỹ đứng trên đỉnh cao mới của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: dám đánh Mỹ và thắng Mỹ. Anh xứng đáng là những ” Con người đẹp nhất “, là niềm tự hào của dân tộc:

“Hoan hô anh giải phóng quân

Kính chào anh con người đẹp nhất

Lịch sử hôn anh chàng trai chân đất

Sống hiên ngang bất khuất ở trên đời

Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi

Một dây ná, một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ

Không tự ngắm mình anh chẳng hay đâu

Hỡi chàng dũng sỹ

Cả năm châu chân lý đang nhìn theo”.

( Bài ca xuân 68 – Tố Hữu)

Sự hy sinh của người lính là sự hy sinh trong sáng, là ” Cái chết hóa thành bất tử “- ( Tố Hữu ) trong lòng nhân dân, trong lòng đất nước. Lê Anh Xuân đã ghi lại một trường hợp hy sinh điển hình để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ:

” Và anh chết trong khi đang đứng bắn

Máu anh phun như lửa đạn cầu vồng”

( Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân)

Con đường đi của anh bộ đội cụ Hồ là con đường của những chiến công kỳ diệu. Từ chân đất, anh “cưỡi máy bay lướt giữ không gian”- (Thanh Hải) . Từ mang ngọn tầm vông, anh điều khiển dàn tên lửa. Anh là hiện thân của sức mạnh nhân dân anh hùng. Trong đại thắng mùa xuân 1975, anh truy kích kẻ thù bằng những bước chân của Phù Đổng, hào khí của Lê Lợi, Quang Trung:

” Anh đánh như sét nổ trời rung

Anh chuyển như lũ dồn bão cuốn

Chặt Buôn Mê Thuật rụng cả Tây Nguyên

Quét Huế – Thừa Thiên đổ nhào Đà Nẵng”

( Toàn thắng về ta – Tố Hữu)

Các anh lại viết lên một huyền thoại mới của thời đại, được cả ” Năm châu, chân lý” nhìn theo, cái nhìn trìu mến và khâm phục. Tuy nhiên, không vì vậy mà anh bị thần thánh hóa, trái lại vẫn là những con người mang cốt cách bình dị. Dũng sỹ diệt Mỹ qua con mắt trẻ thơ:

” Cháu nghe chú đánh những đâu

Những tàu chiến cháy, những tàu bay rơi

Đến đây chỉ thấy chú cười

Chú đi gánh nước chú ngồi đánh bi”

( Gửi theo các chú bộ đội – Trần Đăng Khoa)

Anh bộ đội cụ Hồ là kết tinh của bình thường và phi thường, của vĩ đại và giản dị. Và còn là sự kết tinh của nhiều phẩm chất ” Yêu thương mênh mông”, ” Căm hờn cháy bỏng”, ” rất mãnh liệt và cũng rất dịu dàng”. Người chiến sỹ có tầm vóc lớn lao của thời đại, phẩm chất của anh là ” Thước đo mọi giá trị trên đời”. Đó là vì anh đã phấn đấu bền bỉ qua hai cuộc kháng chiến, được nhân dân nuôi dưỡng và truyền cho dòng sữa nhân nghĩa, anh hùng của bốn nghìn năm, được thời đại cho tư tưởng khoa học và cách mạng Mác – Lê nin, được Đảng, Bác chăm lo giáo dục và rèn luyện:

” Tổ quốc cho anh dòng sữa tự hào

Thời đại cho anh ánh sao trí tuệ”

( Tố Hữu)

Tiếng súng lại nổ ở hai đầu biên giới. Các anh lại phải ra Bắc vào Nam thực sự là điểm tựa của lịch sử và của nhân dân để bảo vệ vững chắc Tổ Quốc thân yêu. Anh là niềm tự hào lớn của dân tộc, là điển hình cao đẹp cho người anh hùng trong thời đại. Anh mãi và sẽ là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn trong những sáng tác thơ ca.

III. Kết luận:

Đọc những trang thơ kháng chiến giai đoạn 1945 – 1975, chúng ta hiểu thêm cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của con người sống trong chiến tranh ác liệt. Đồng thời ta thấy được bản chất anh hùng cách mạng của người lính.

Thơ kháng chiến là tiếng đại bác gầm rung và cũng là tiếng chim ca hát bình minh. Chất trữ tình và chất anh hùng ca hoà quyện trong hồn thơ, trong mỗi bài, mỗi câu, mỗi ý thơ. Nó bảo tồn được sức sống không chỉ vì đó là tiếng nói của thời đại lịch sử mà còn là tiếng nói trái tim của những phong cách thơ riêng. Thơ trong giai đoạn này đã phát hiện tư thế người lính đối diẹn với lịch sử, với chân trời tự nhiên luôn giãn nở. Các anh là linh hồn của hai cuộc kháng chiến trường kì. ở các anh có sự hội tụ đầy đủ phẩm chất, tâm hồn và tính cách, hành động tiêu biểu cho những con người anh hùng dân tộc.

Chiến tranh đã qua đi nhưng kí ức về những con người làm nên lịch sử còn hằn sâu trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam. Lớp người của thế hệ hôm nay xin tiếp nối truyền thống ông cha để làm vẻ vang non sông, để đất nước Việt Nam mãi là:

“ Đất nước của Nhân dân,

Đất nước của ca dao, thần thoại.”

Câu trả lời:

Tham khảo nha bạn ,phát triển ý thêm nhé :))

Núi Châu Long - Châu Viên nằm ở Đông Nam huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu, dài 8km, điểm cao nhất 355m,cách thị xã Bà Rịa khoảng 30km, cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 150km. Sườn núi phủ đầy cây rừng rậm rạp và nhiều hang động tự nhiên, có suối nước ngọt quanh năm, dọc theo chân núi là bãi biển chạy dài từ đông sang tây qua núi Thùy Vân. Năm 1948, để tưởng nhớ hai vị Bí thư huyện ủy Long Điền là Bùi Công Minh và Mạc Thanh Đạm đã anh dũng hi sinh dưới chân núi, nên người dân đã đặt tên là núi Minh Đạm. Năm 1993 khu căn cứ Minh Đạm đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử cách mạng theo Quyết định số 57/VHQĐ ngày 18 tháng 01 năm 1993. Căn cứ gồm 04 khu vực chính: Đá Chẻ, Chùa Giếng Gạch, Đá Chồng và chùa Viên. Hiện nay khu vực Đá Chẻ nằm trong khung cảnh thiên nhiên kỳ vỹ đã được đầu tư, tôn tạo thành điểm tham quan thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước với những chuyến du lịch về nguồn . Di tích bao gồm Đền thờ 2642 vị anh hùng liệt sỹ và nữ anh hùng liệt sĩ Võ Thị Sáu, nhà truyền thống, 04 hang: Hanh Huyện Ủy, hang huyện Đội, Hang Thị Xã và Hang Quân y. Sau khi thắp hương cho các liệt sĩ tại đền thờ liệt sĩ Minh Đạm, khách có thể theo đường mòn đi tham quan các khu vực hang động nằm sâu trong núi, nơi đã từng diễn ra các hoạt động ăn ở, hội họp của các quân và dân huyện Long Đất qua 2 kỳ kháng chiến. Minh Đạm hôm nay đã trở thành điểm du lịch lý tưởng cho nhiều loại hình du lịch như: sinh thái, dã ngoại leo núi và du lịch về nguồn tìm hiểu lịch sử cách mạng, giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ hôm nay.

Câu trả lời:

“ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”
Là đạo lý biết ơn tốt đẹp từ xưa đến nay của nhân dân Việt Nam được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày
Vậy ăn quả nhớ quả trồng cây là gì? Khi ăn Quả Ta là người hưởng thụ còn kẻ trồng cây là người tạo ra thành quả nghĩa là khi thừa hưởng một thành quả nào ta phải biết ơn đến người tạo ra thành quả đó
Nhà nhà đều thờ tổ tiên, ngày giỗ các thành viên trong gia đình sum họp lại để thắp nén nhang tưởng nhớ ông bà , cụ kị .Dân tộc ta còn có ngày mồng 10-3 âm lịch hàng năm là ngày giỗ tổ Hùng Vương. Cứ vào ngày này mọi người từ khắp nơi ko quản đường xá xa xôi cùng nhau cùng nhau về để dâng hương tưởng nhớ người đã có công dựng nước và giữ nước. Trên khắp đất nước thường có các chùa chiền thờ các bặc tiền bối các anh hùng dân tộc cua mọi thời đại để rồi đó ngày 27-7 được chọn làm ngày thương binh liêt sĩ Việt Nam để tưởng nhớ những thương binh chiên sĩ, những gia đình có công với cách mạng, những bà mẹ Việt Nam anh hùng đã bị hi sinh hạnh phúc , hi sinh bản thân mình để bảo vệ tổ quốc. Để nhớ ơn các thầy cô giáo, những người đã có công gieo trồng mầm non đất nước ngày 20-11 là ngày được chọn làm ngày nhà giáo Việt Nam. Còn để nhớ ơn những người đã giúp đỡ và cứu sống mình nthì ngày 27-2 được chọn làm ngày thầy thuốc Việt Nam … Còn rất nhiều rất nhiều những hành động ân nghĩa của nhân dân ta đối với thế hệ đi trước
Là học sinh , để thể hiện đạo lí “ ăn quả nhớ kẻ trồng cây” đối với cha mẹ, chúng ta cần hêt lòng yêu thương, kính trọng. Còn đối với thầy cô chúng ta cần ngoan ngoãn, lễ phép, học chăm, học giỏi. Nếu có điều kiện chúng ta tham gia vào những hoạt động xã hội. Tuy nhỏ nhưng tràn đầy những ý nghĩa
Câu tục ngữ trên đã giúp ta hiểu rõ hơn về đạo lý làm người: sống trên đời phải nhớ đến ân nhân trước sau, lòng biết ơn là tình cảm cao quý thiên liêng cần có của mỗi người và thể hiện ta là người có văn hóa, lịch sự. Mỗi chúng ta cần trau dồi thêm phẩm chất cao quý đó để lòng biết ơn mãi là bài học quý có giá trị trong cuộc sống chúng ta.