Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Chưa có thông tin , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 2
Số lượng câu trả lời 163
Điểm GP 28
Điểm SP 208

Người theo dõi (49)

Auto Kute
chiến lê
Nguyễn Thu Trang

Đang theo dõi (0)


Câu trả lời:

C1:

Ông cha ta ngày xưa đã dặn:

“Một cây làm chẳng lên non
Ba cây chụm lại lên hòn núi cao”.

Câu tục ngữ nhằm răn dạy chúng ta phải biết đoàn kết, đồng tâm hiệp lực, giúp đỡ nhau để làm nên được những việc lớn. Vậy “một cây” là gì? “Ba cây” là gì? Tại sao “một cây làm chẳng lên non” còn “ba cây chụm lại lên hòn núi cao”?

Thông qua câu tục ngữ, ta có thể hiểu “một cây” là một người, một bộ phận nhỏ bé của xã hội. Còn “ba cây” là nhiều người ,là toàn xã hội. “Một cây làm chẳng lên non”có nghĩa là một người thí khó có thể làm nên được việc. “Ba cây chụm lại lên hòn núi cao” là có nhiều người cùng làm thì việc sẽ hoàn thành. Cả câu có nghĩa là: Chỉ có một người thí không thể làm nên việc gì, còn nếu có nhiều người chung sức thì việc dù lớn đến mấy cũng sẽ thành công. Câu này được sử dụng nhằm kêu gọi mọi người hãy đoàn kết cùng chung sức làm việc.

Câu tục ngữ đã được thể hiện từ ngàn xưa.Minh chứng là nhân dân ta đã cùng nhau đứng lên chống lại giặc phương Bắc xâm lược thời Lí ,Trần. Rồi chúng ta lại cùng nhau đánh thắng cả những cường quốc về quân sự như Anh ,Nhật ,Mĩ. Ta còn thấy câu tục ngữ này vẫn còn đúng trong thời đại ngày nay. Điển hình như việc Đồng báo miền Trung đang phải chống chọi với cơn lũ lớn nhất trong lịch sử. Nếu chỉ có một số lượng nhỏ người dân chúng ta đóng góp cứu trợ thì chỉ giúp được rất ít đồng bào đang oằn mình trong cơn lũ dữ. Nhưng nếu như cả nước chúng ta cùng hợp sức ,chung tay giúp đỡ thì mọi đồng bào sẽ được hỗ trợ, cứu giúp. Cũng như việc chúng ta chấp hành pháp luật vậy. Lấy ví dụ như khi nhà nước ban hành luật bắt buộc mọi người phải đội mũ bảo hiểm. Nếu khi ấy chỉ có một bộ phận nhỏ người dân nghiêm chỉnh chấp hành thì tỉ lệ giao thông liệu có giảm? Nhưng khi mọi người đã biết cùng nhau chấp hành bằng việc đội mũ bảo ...... hiểm thì số vụ tai nạn đã giảm đáng kể. Ta cũng có thể thấy được tinh thần đoàn kết thông qua việc giữ gìn văn minh. Cụ thể là việc xả rác nơi công cộng. Nếu chỉ có một người dân có ý thức bỏ rác vào thùng thì đường phố sẽ đầy rác, mất vệ sinh, từ đó có thể gây ra nhiều loại bệnh nguy hiểm đến con người. Nhưng khi tất cả đều có ý thức thì đường phố sẽ sạch đẹp, văn minh.

Ta có thể thấy tinh thần đoàn kết là rất cần thiết để xây dựng một xã hội, đất nước lớn mạnh, giàu đẹp. Vậy mà vẫn có những cá nhân, tập thể nhỏ lẻ muốn phá vỡ sự đoàn kết ấy. Họ là những người không thực hiện , không tuân theo những quy tắc của xã hội, đi ngược lại những quy định của nhà nước ,cộng đồng như xả rác bừa bãi, không chấp hành pháp luật, không tuân thủ luật lệ giao thông. Họ còn là những người chỉ biết đến bản thân ,không có lòng thương yêu đồng loại ,không biết giúp đỡ người khác… Không những thế nhiều người còn lập ra tổ chức phản động nhằm chống đối chính quyền, chia rẽ đất nước , dân tộc. Những hành động ấy của họ thật đáng chê trách.

Chúng ta có thể thể hiện tinh thần đoàn kết dù chỉ bằng những việc nhỏ nhặt như trong môi trường học đường thì giúp đỡ bạn bè học tập, tham gia các phong trào do trường lớp, địa phương tổ chức như chiến dịch “Mùa hè xanh”. Ngoài xã hội thì ta có thể chung tay giúp đỡ các cụ già neo đơn, những hoàn cảnh còn khó khăn, giúp đỡ đồng bào bị thiên tai lũ lụt. Những việc làm ấy dù nhỏ nhoi, ít ỏi nhưng cũng một phần nào chia sẻ, giúp đỡ được cộng đồng.

Tinh thần đoàn kết thông qua câu tục ngữ:

“Một cây làm chẳng lên non
Ba cây chụm lại lên hòn núi cao”.

thật là lớn lao và ý nghĩa. Mỗi chúng ta hãy cùng nhau chung tay góp sức xây dựng một xã hội đầy ắp tình người. Vì “một cây” sẽ chẳng bao giờ làm nên được một thế giới tốt đẹp hơn. ...

C2:

Mền ko biết '-'

Câu trả lời:

Chiến sự ở Đà Nẵng:


- Ngày 31/8/1858, tàu chiến của liên quân Pháp - Tây Ban Nha dàn trận tại cửa biển Đà Nẵng. Kế hoạch của Pháp là ''đánh nhanh, thắng nhanh'', nhanh chóng chiếm được Đà Nẵng làm bàn đạp để kéo quân chiếm Huế, kết thúc chiến tranh.

- Ngày 1/9/1858, Liên quân bắn đại bác lên đôn Điện Hải, An Hải trong suốt ngày đó. Sau cuộc pháo kích, liên quân đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà.

- Mấy lần liên quân tìm cách đánh vào đều bị quan quân đánh bật lại và thiệt hại khá nặng. Sau 6 tháng chiến tranh, chúng hầu như đều dậm chân tại chỗ.

- Tháng 2/1859, Pháp rút quân kéo khỏi Đà Nẵng và đem quân vào Gia Định.

Chiến sự ở Gia Định:

- Sáng ngày 17/2/1859, Pháp tấn công thành Gia Định và khoảng 10h cùng ngày thì Gia Định thất thủ.

- Tháng 2/1861, Pháp được tăng viện lên 4000 quân và 70 tàu chiến.

- Đêm 23/2/1861, Pháp tấn công Đại đồn Chí Hoà. Quân ta và Pháp đều thiệt hại nặng nhưng Pháp chiếm đc đồn.

- Pháp tiếp tục lấn tới, mở cuộc hành binh đẫm máu dọc sông Bảo Định, chiếm được Định tường (12/4), Biên Hòa (18/12/1861) và đến 23/3/1862, thành Vĩnh Long thất thủ.

- 25/6/1862, Pháp tuyên bố lập ra chế độ Soái Phủ ở Nam Kì (Gouverneur Amiral), đánh dấu bước mở đầu chế độ thuộc địa ở Nam kì.

Câu trả lời:

rong áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi - người Anh hùng giải phóng dân tộc đề cập đến nghệ thuật đánh giặc, cứu nước tài tình của nghĩa quân Lam Sơn là: “Lấy yếu chống mạnh, thường đánh bất ngờ/Lấy ít địch nhiều, hay dùng mai phục”1. Trong đó, trận Tốt Động - Chúc Động (07-11-1426) khiến cho quân giặc “… thây phơi đầy nội, thối để ngàn thu” là một điển hình của nghệ thuật đánh mai phục, được nêu trong áng văn.

Trận Tốt Động - Chúc Động diễn ra trong bối cảnh cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã chuyển thành chiến tranh giải phóng và đang ở vào giai đoạn cuối. Theo nhận định của Lê Lợi, lúc này “Thế giặc ngày một suy, quân ta ngày một mạnh, thời cơ đã đến mà không hành động ngay sợ lỡ mất cơ hội2.

Thực hiện chủ trương trên của Lê Lợi và Nguyễn Trãi, một bộ phận của Nghĩa quân chủ động triển khai lực lượng mai phục đập tan cuộc phản công của địch ngay trên đường hành quân. Khi quân viện binh của địch vừa đến Đông Quan, chúng không nghỉ ngơi, vội mở cuộc phản công ngay nhằm tiêu diệt lực lượng nghĩa quân Lam Sơn đang hoạt động ở gần thành Đông Quan để giành lại thế chủ động chiến lược trên chiến trường. Theo đó, một lực lượng nhỏ ở lại giữ thành, còn gần 10 vạn quân chia làm 3 đạo quân: Đạo quân thứ nhất do Vương Thông chỉ huy, đóng ở bến Cổ Sở trên sông Đáy và con đường từ phía Tây đến Đông Quan; Đạo quân thứ hai do Phương Chính, Lý An chỉ huy, đóng ở cầu Sa Đôi trên sông Nhuệ; Đạo quân thứ ba do Sơn Thọ, Mã Kỳ chỉ huy, đóng ở cầu Thanh Oai trên sông Đỗ Động và con đường bộ từ phía Tây Nam đến Đông Quan. Ba đạo quân của địch đã chiếm giữ những yếu địa thuộc các đầu mối giao thông thủy, bộ phía Tây và Tây Nam Đông Quan. Từ đây, quân Minh hình thành 3 mũi tiến công nhằm vây quét, triệt hạ các căn cứ của Nghĩa quân ở Ninh Kiều (Chương Mỹ, Hà Tây) do hai tướng Phạm Văn Xảo và Lý Triện chỉ huy. Nắm vững âm mưu của địch, hai tướng Phạm Văn Xảo và Lý Triện cho quân tạm rời căn cứ để “tránh mũi nhọn của giặc”; đồng thời, chọn đạo quân thứ ba của địch đóng ở cầu Thanh Oai làm mục tiêu tiến công. Đây là đạo quân yếu nhất trong ba mũi tiến công của địch: cách xa đại bản doanh Cổ Sở, binh lực ít, Sơn Thọ, Mã Kỳ không phải là tướng thiện chiến. Nghĩa quân vừa gấp rút bố trí quân mai phục ở cánh đồng Cổ Lãm (Thanh Oai, Hà Tây), vừa đem quân ra khiêu chiến, nhử địch ra khỏi doanh trại, dẫn dắt chúng vào trận địa mai phục để tiêu diệt. Không chút nghi ngờ, Sơn Thọ, Mã Kỳ dốc toàn bộ binh lực ra truy đuổi và lọt vào giữa trận địa mai phục. Với nghệ thuật chọn địa hình có lợi, bố trí quân mai phục khéo léo, tài tình của tướng Phạm Văn Xảo và Lý Triện, từ các vị trí mai phục, Nghĩa quân xông ra chặn đầu, khóa đuôi và áp sát tiến công vào hai bên sườn quân địch. Bị đánh bất ngờ và ở vào thế bất lợi, quân địch lúng túng, bị động, chống đỡ, chạy tán loạn hòng thoát thân, nhưng hơn 1.000 quân phải bỏ mạng. Sơn Thọ, Mã Kỳ và đám tàn quân mở đường máu, chạy về Đông Quan. Nghĩa quân tiếp tục truy kích đến cầu Nhân Mục, bắt sống 500 tên. Thừa thắng, Nghĩa quân tiến lên đánh thẳng vào Đạo quân thứ hai của địch đóng ở cầu Sa Đôi. Hoảng sợ trước sức mạnh của Nghĩa quân, Phương Chính không dám nghênh chiến, vội rút quân về Cổ Sở.

Như vậy, với nghệ thuật chủ động, linh hoạt bố trí quân mai phục, hai tướng Phạm Văn Xảo và Lý Triện đã chỉ huy một bộ phận Nghĩa quân bẻ gãy hai cánh quân của địch đóng ở cầu Sa Đôi và Thanh Oai. Tiếp đó, đem quân khiêu chiến tại đại bản doanh của Vương Thông ở Cổ Sở để thăm dò lực lượng, ý định tác chiến của chúng, xây dựng cách đánh cho Nghĩa quân nhằm đập tan cuộc phản công, tạo thuận lợi bao vây tiêu diệt gọn thành Đông Quan. Qua trận đánh khiêu chiến, tướng quân Lý Triện nhận thấy, quân của Vương Thông còn rất mạnh, nên chủ động cho Nghĩa quân hủy bỏ doanh trại, rút về Cao Bộ (Chương Mỹ, Hà Tây). Từ Thanh Đàm (Thanh Trì, Hà Nội), đạo quân Lam Sơn do Đinh Lễ, Nguyễn Xí chỉ huy, cũng bí mật về hội quân ở Cao Bộ. Hai đạo quân phối hợp chặt chẽ, chuẩn bị một thế trận lợi hại quyết đập tan cuộc phản công của Vương Thông, giành thắng lợi.

Tin trinh sát và tài liệu khai thác tù binh giặc cho biết, để chuẩn bị tiến đánh Cao Bộ, Vương Thông chia lực lượng làm hai đạo chính binh và kỳ binh. Vương Thông chỉ huy chính binh sẽ qua sông Ninh, Chúc Động (Chúc Sơn) đánh thẳng vào Cao Bộ. Đạo kỳ binh cũng bí mật vượt sông Ninh, đi nhanh qua Tốt Động, Yên Duyệt đánh vào phía sau Cao Bộ. Chúng thống nhất kế hoạch bắn pháo hiệu khi đến vị trí quy định để phối hợp cùng tiến công Cao Bộ từ hai mặt (trước và sau). Phân tích kỹ kế hoạch tác chiến của địch, các tướng lĩnh của Nghĩa quân quyết định “tương kế, tựu kế” để đánh địch. So sánh lực lượng thấy bất lợi cho ta, nhưng quân của nghĩa quân Lam Sơn đều là lực lượng thiện chiến, tinh nhuệ, giỏi đánh mai phục. Để phát huy sở trường của Nghĩa quân, các tướng lĩnh quyết định chọn Tốt Động, Chúc Động – vùng đồng chiêm trũng, lầy lội, có nhiều gò đống cao và lau lách rậm rạp làm nơi giao chiến; chọn hình thức mai phục làm phương pháp tác chiến, nhằm tránh “sức mạnh của quân Minh”, buộc chúng phải đánh theo cách đánh của ta. Dưới sự chỉ huy khôn khéo, tài tình của các tướng quân, chỉ trong thời gian ngắn, các lực lượng của Nghĩa quân bí mật vào các trận địa mai phục đã chọn trước, sẵn sàng chờ đón đánh địch.

Đúng như dự kiến, rạng sáng ngày 07-11-1426, Vương Thông cho đại quân xuất phát. Theo kế hoạch đã vạch ra, hai đạo kỳ binh và chính binh lần lượt vượt cầu Ninh Giang, tiến về Cao Bộ. Đạo kỳ binh theo đường tắt tiến nhanh về phía Cao Bộ, Đạo chính binh theo đường “Thượng đạo” tiến đến phía trước Cao Bộ. Đạo quân này di chuyển ồ ạt, phô trương thanh thế vừa để uy hiếp, vừa để thu hút quân ta về phía trước mặt Cao Bộ, mất cảnh giác, quên đề phòng phía sau. Khi đạo kỳ binh địch đến địa phận Tốt Động thì cũng là lúc đạo chính binh của chúng qua hết cầu Ninh Giang sang bờ Nam sông Ninh. Lúc đó, Nghĩa quân nổ pháo, cả hai đạo quân địch đều tưởng là pháo lệnh của mình, xô nhau tiến gấp để mau chóng thực hiện mệnh lệnh tiến công. Vậy là cả hai cánh quân của địch đã “bí mật” tiến quân một cách dễ dàng vào cánh đồng Tốt Động, Chúc Động. Đối với Nghĩa quân, theo kế hoạch đã thống nhất, khi nghe thấy pháo lệnh thì “vẫn nằm im không được nhúc nhích3. Địch càng chủ quan cho rằng kế hoạch của chúng hoàn toàn bí mật và sẽ đánh úp được Nghĩa quân. Trong lúc ở cả hai nơi Tốt Động và Chúc Động, trời mưa càng làm cho khu vực giao chiến đã lầy lội lại càng khó đi; người, ngựa đều bị sa lầy trên cánh đồng. Khi cả hai đạo quân của địch đã lọt vào giữa trận địa mai phục, lực lượng ta mai phục ở các vị trí đồng loạt xông ra đánh quyết liệt. Địch hoảng loạn, không kịp trở tay đối phó, giẫm đạp lên nhau tháo chạy. Bị đánh bất ngờ, hơn 5 vạn quân địch chết tại trận, hơn 1 vạn quân bị bắt sống. Thượng thư Trần Hiệp và Nội quan Lý Lượng bị giết tại trận. Một bộ phận quân địch chạy về phía sông Ninh để về Đông Quan bị “chết đuối rất nhiều, nước sông Ninh Kiều do vậy mà tắc nghẽn”4. Theo dân gian truyền tụng: Khúc sông Ninh bị nghẽn, tắc vì xác giặc quá nhiều đến nay vẫn còn vết tích gọi là sông Lấp hay Tắc Giang. Vì bị tắc, dòng sông Ninh (sông Đáy) phải chảy vòng sang bên tả ngạn, tức khúc sông Mai Lĩnh ngày nay. Chủ tướng địch là Vương Thông bị thương, chạy được về Đông Quan.

Chiến thắng oanh liệt ở trận Tốt Động – Chúc Động của Nghĩa quân không những làm khiếp đảm quân xâm lược mà còn làm thay đổi cục diện chiến tranh, đẩy địch vào thế bị vây hãm, không thể thực hiện được bất cứ một cuộc phản công nào. Chỉ sau vài canh giờ chiến đấu, đã có gần 7 vạn quân địch bị chết tại trận, chết đuối và quân ta “bắt sống hơn 1 vạn tên giặc, thu được ngựa, quân tư, khí giới, xe cộ nhiều không kể xiết5. Cuộc phản công lớn của địch do đích thân Tổng binh Vương Thông chỉ huy đã bị thất bại hoàn toàn. Ngay sau chiến thắng Tốt Động - Chúc Động, Nghĩa quân thừa thắng tiến công các căn cứ bảo vệ vòng ngoài thành Đông Quan, chờ đại quân do Lê Lợi và Nguyễn Trãi chỉ huy đang đứng chân ở Thanh Hóa. Dưới sự chỉ huy tài tình, sắc sảo của Bộ thống soái, quân và dân ta bắt đầu vây hãm thành Đông Quan và đẩy mạnh tiến công địch trên khắp các chiến trường. Khu giải phóng ngày càng được mở rộng, nối liền từ Nam ra Bắc, quân Minh chỉ còn chiếm giữ và cố thủ ở trong một số ít thành lũy.

Chiến thắng Tốt Động - Chúc Động là một chiến thắng to lớn nhất, rực rỡ nhất, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch nhất và đạt hiệu suất chiến đấu cao nhất trong suốt 9 năm chiến đấu của nghĩa quân Lam Sơn, kể từ khi cuộc kháng chiến bùng nổ đến bấy giờ. Chiến thắng Tốt Động - Chúc Động đã đẩy quân địch vào hẳn thế phòng ngự bị động. Từ đó, thế và lực của địch ngày càng sa sút, chỉ còn đủ sức cố thủ trong một số thành lũy, chờ quân cứu viện, không còn khả năng thực hiện một cuộc phản công nào. Quân và dân ta nhân đà thắng lợi, tiến công và vây hãm các thành lũy của địch; đồng thời, tranh thủ thời gian tăng cường lực lượng về mọi mặt, củng cố khu vực giải phóng và chuẩn bị điều kiện tiến lên tiêu diệt viện binh địch, giành thắng lợi quyết định, kết thúc chiến tranh. Trận Tốt Động - Chúc Động – điển hình về nghệ thuật đánh mai phục của nghĩa quân Lam Sơn vẫn còn nguyên giá trị cần tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

Câu trả lời:

Nhà Hán (giản thể: 汉朝; phồn thể: 漢朝; bính âm: Hàn cháo; Wade–Giles: Han Ch'au; Hán-Việt: Hán triều; 206 TCN – 220) là triều đại kế tục nhà Tần (221 TCN - 207 TCN), và được tiếp nối bởi thời kỳ Tam Quốc (220-280). Triều đại này được thành lập bởi Lưu Bang, một lãnh tụ khởi nghĩa chống lại sự cai trị của nhà Tần, được biết đến sau khi qua đời là Hán Cao Tổ (漢高祖). Triều đại nhà Hán bị gián đoạn bởi Vương Mãng, một ngoại thích nhà Hán, tự lập mình lên làm hoàng đế, thành lập nhà Tân (9 - 23). Sau đó, hoàng thân Lưu Tú đã khôi phục lại chính quyền nhà Hán, tiếp tục sự thịnh trị, được biết đến với tên gọi Hán Quang Vũ Đế (漢光武帝).

Chính việc này đã chia nhà Hán thành hai giai đoạn: Tây Hán (西漢; 202 TCN - 9) với kinh đô ở Trường An (長安) và Đông Hán (東漢; 23 - 220) với kinh đô ở Lạc Dương (雒陽).

Kéo dài 4 thế kỷ, nhà Hán được xem như là Triều đại huy hoàng nhất trong lịch sử Trung Quốc.[3] Cho đến ngày nay, nhóm dân tộc chiếm phần lớn dân số Trung Quốc cũng tự cho mình là người Hán, và chữ viết Trung Quốc cũng được xem là chữ Hán.[4]

Nhà Hán đặt ra các khu vực cai trị được quản lý trực tiếp từ trung ương, thường được gọi là quận và một số nước chư hầu. Tuy nhiên, những nước này đã dần dần bị loại bỏ, đặc biệt là sau Loạn bảy nước xảy ra dưới thời Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Năm 200 TCN, một quốc gia du mục ở miền Bắc là Hung Nô đã đánh bại quân đội nhà Hán. Sau khi thất bại, nhà Hán đã bắt đầu dựng lên một cuộc hôn nhân giữa công chúa nhà Hán với vua Hung Nô. Và thực sự, nhà Hán đã chịu thua kém Hung Nô. Mặc dù hai bên đã ký hòa ước với nhau, nhưng người Hung Nô vẫn thường xuyên tấn công biên giới phía Bắc nhà Hán. Đến thời Hán Vũ Đế Lưu Triệt, ông đã phát động nhiều chiến dịch quân sự chống trả, và những chiến thắng trong những cuộc chiến cuối cùng đã khiến Hung Nô phải thần phục và hằng năm nộp cống cho nhà Hán. Những chiến dịch mở rộng cương thổ được thực hiện chủ yếu tại lòng chảo Tarim, Trung Á. Thành lập một hệ thống thương mại rộng lớn tới tận khu vực Địa Trung Hải mà người ta thường gọi là con đường tơ lụa. Nhà Hán chia Hung Nô thành hai nước đối lập nhau, Nam và Bắc Hung Nô qua sông Y Lê. Tuy đã ổn định biên giới phía bắc, nhưng nhà Hán vẫn gặp nhiều cuộc tấn công của người Tiên Ti.

Câu trả lời:

C1:

- Giống: Đều tổ chức theo chế độ “ngụ binh ư nông”, được tổ chức chặt chẽ, luỵên tập võ nghệ hằng năm, …
- Khác: Quân đội thời Lê Sơ không có quân đội của các Vương hầu, quý tộc. Vua trực tiếp nắm quyền tổng chỉ huy quân đội...

C2:

A/ Nguyên nhân xảy ra chiến tranh
THỜI ĐINH – TIỀN LÊ
Tháng 10 năm 979, cha con Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị sát hại, Vệ vương Đinh Toàn mới 6 tuổi lên ngôi vua. Lê Hoàn trở thành Nhiếp chính, tự do ra vào cung cấm.
Thấy triều đình Hoa Lư rối ren, nhà Tống bên Trung Quốc có ý định cho quân tiến vào đánh chiếm Đại Cồ Việt. Vua Tống nhiều lần viết thư sang dụ và đe dọa triều Đinh bắt phải quy phụ đầu hàng: "...Nếu quy phục thì ta tha cho, bằng trái lệnh thì ta quyết đánh..." Trước tình hình đó, Thái hậu Dương Vân Nga cùng tướng Phạm Cự Lạng và các triều thần tôn Lê Hoàn lên làm vua. Lê Hoàn lên ngôi lấy tôn hiệu là Minh Càn Ứng Vận Thần Vũ Thăng Bình Chí Nhân Quảng Hiếu Hoàng đế, niên hiệu là Thiên Phúc, quốc hiệu vẫn là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư. Lê Đại Hành cử Phạm Cự Lạng (Lượng), em của Phạm Hạp làm đại tướng quân. Chuẩn bị chiến tranh.

Tóm lại Nhà tống thấy đại việt suy yếu nên tổ chức chiến tranh hòng xâm lược


THỜI LÝ

Cuối thế kỉ XI, nhà Tống khủng hoảng, bên ngoài bị các nước Liêu, Hạ quấy nhiễu. Để cứu vãn tình thế → mang quân xâm lược Đại Việt ta.

Tóm lại : Nhà tống tổ chức xâm lược để dùng chiến thắng bên ngoài. Tạo uy danh trong nước, giải quyết khó khăn trong nước.

B/ Nhà lãnh đạo
THỜI ĐINH – TIỀN LÊ : Lê Hoàn
THỜI LÝ : Lý Thường Kiệt

C/ Diễn biến :
THỜI ĐINH – TIỀN LÊ

- Chờ giặc vào và bày trận đánh
- Lập phòng tuyến và đóng cọc trên sông bạch đằng. nhưng trận chiến kéo dài lẻ tẻ. Không bằng chiến thắng trên sông bạch đằng. Sự phối hợp giữa các cánh quân chưa tốt. Nhưng nhờ tài cầm quân của Lê Hoàn quân ta vẫn đại thắng.
- Giết được chủ tướng( Hầu nhân bảo).

THỜI LÝ

- Chủ động tiến đánh sau đó mới cố thủ và lập phòng tuyến.
- Phát huy thế mạnh của chiến tranh phục kích. Phố hợp nhuần nhuyễn giữa các đạo quân.

- Chủ tướng còn sống( Chủ động rút quân về do không thể kéo dài chiến tranh).