Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Nghệ An , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 1
Số lượng câu trả lời 152
Điểm GP 20
Điểm SP 140

Người theo dõi (26)

Đang theo dõi (1)


Câu trả lời:

Đêm nay là ngày trăng rằm nên trăng rất sáng và tròn. Trăng đang trải những ánh vàng khắp không gian.

Ánh nắng chiều vừa tắt, chân trời phương đông ửng sáng, mặt trăng từ từ nhô lên. Lát sau trăng lên cao dần, tròn vành vạnh và vàng óng như chiếc đĩa bạc to. Bầu trời bây giờ trong vắt, thăm thẳm và cao. Hàng ngàn ngôi sao lấp lánh như những viên ngọc quý vây quanh mặt trăng. Mây trắng lững lờ trôi. Thỉnh thoảng có những dải mây mỏng vắt ngang qua mặt trăng rồi dần đứt hẳn. Càng lên cao dường như mặt trăng càng nhỏ lại, sáng vằng vặc. Đưa mắt nhìn không gian xung quanh, đâu đâu cũng một màu vàng dịu mát, êm ái. Ánh sáng phủ lên thôn xóm, làng mạc, đồng ruộng. Ngoài trời gió thổi hiu hiu. Trong vườn, mấy khóm hoa nở trắng xóa, cỏ cây lay động xào xạc. Ánh trăng len lỏi soi vào những bụi cây. Bóng cây nghiêng mình soi xuống bức tường trước hiên nhà tạo nên bức tường hoa thật đẹp. Dưới ánh trăng sáng tỏ, em cùng mấy bạn hàng xóm thi nhau ca hát. Mấy cụ già ngồi trò chuyện, uống nước trà và ngắm trăng trên vỉa hè. Càng về khuya, cảnh vật càng tĩnh mịch, chỉ có những tiếng côn trùng hòa âm. Ánh trăng sáng đẹp cùng hơi sương ru ngủ muôn loài.

Đêm trăng đã để lại cho em ấn tượng về những cảnh đẹp quê hương. Em mong rằng quê hương mình mãi mãi có những đem trăng dịu hiền, tươi đẹp như thế.



Câu trả lời:

Vào đời Hùng Vương thứ 6, sau khi đánh đuổi xong giặc Ân sang xâm lược bờ cõi Văn Lang, ta đã bay về trời.
Vừa về tới cổng ta thấy mọi cảnh vật đều rất lạ so với hạ giới. Ngay lúc ấy, ta được vào yết kiến Ngọc Hoàng. Người có hỏi ta:
- Ở dưới trần gian con khoẻ chứ? Sinh hoạt ở dưới đó ra sao? Cơm ở trần gian có ngon hơn ở trên này không? Cảnh trí dưới đó ra sao, có đẹp bằng thượng giới- không con?
- Dạ thưa ngài! ở dưới trần gian cảnh sinh hoạt rất vui, cơm con ăn rất ngon vì các món ăn đều rất lạ miệng. Còn cảnh trí ở trần gian thì thật tuyệt thưa ngài. Đúng là “Sơn thuỷ hữu tình” đấy ạ!
- Ô! Thật là tuyệt! Vậy bây giờ con hãy kể chuyện con đánh giặc giúp dân cho ta nghe đi!
- Vâng ạ!
Thế rồi ta bắt đầu kể:
- Thưa ngài! Từ khi ngài sai con xuống trần gian đế làm những việc tốt, con đã đầu thai vào người vợ ông lão có tiếng là phúc đức mà vẫn chưa có con. Song con đã nghĩ ra cách: một hôm con đã đặt một dấu chân rất to ở ngoài đồng để chờ đợi.
Đúng như mong ước, hôm ấy bà lão đã đi ra đồng, rồi trông thấy vết chân quá to như vậy, thấy lạ, bà bèn đặt chân lên ướm thử xem chân mình thua kém bao nhiêu. Thế là về nhà ít lâu sau bà thụ thai, rồi mười hai tháng sau con đã ra đời. Nhưng đến năm ba tuổi, con vẫn không đi, không đứng, mà cũng chẳng ngồi, cứ đặt đâu nằm đấy. Năm ấy, lũ giặc Ân tràn sang xâm lược bờ cõi Văn Lang. Thế giặc vô cùng mạnh, đi đến đâu chúng đốt phá nhà cửa, cướp bóc của cải, giết hại dân lành đến đó. Trước tình hình nguy kịch và đau lòng như vậy, nhà vua dưới trần rất lo sợ bèn sai sứ giả đi tìm người hiền tài cứu nước. Khi nghe thấy tiếng loa của sứ giả vang lên ở đầu làng, con bèn ngồi dậy gọi: “Mẹ ơi! Mẹ đi mời sứ giả vào đây cho con.”
Thấy con ngồi được, lại nói được, vợ chồng bà lão vừa ngạc nhiên, vừa vui mừng khôn xiết và nhanh chóng gọi ngay sứ giả vào. Sứ giả vừa bước vào tới cửa con nói ngay: Ngươi hãy mau mau về bảo với nhà vua đúc cho ta một con ngựa sắt, một áo giáp sắt, một cái roi sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này. Sứ giả trần gian vô cùng ngạc nhiên, xong đã nhanh chóng về tâu vua. Nhà vua lập tức mời các thợ đúc khéo tay nhất ngày đêm gắng sức làm những thứ mà con dặn. Đồng thời, cũng ngay từ khi gặp sứ giả, con ăn rất khoẻ, lớn nhanh như thổi, cơm cha mẹ con ăn mấy cũng không no, áo vừa may xong đã đứt chỉ. Thấy vậy, cả làng liền góp gạo nuôi con. Mong con mau lớn khoẻ để giết giặc cứu nước. Hôm ấy, giặc đến chân núi Trâu, người của nhà vua cũng vừa kịp tới mang đủ những thứ con cần. Con liền ăn hết bảy nong cơm, ba nong cà, rồi mặc áo giáp sắt, cầm roi sắt, vươn vai biến thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt, vỗ vào mông ngựa, ngựa hí vang. Con nhảy lên lưng ngựa. Xông ra trận, giặc bị con lấy roi sắt quật ngã túi bụi, hồn bay phách lạc, chúng quay đầu bỏ chạy, giẫm đạp lên nhau mà chết. Vừa lúc ấy, roi sắt của con bị gãy, lập tức con nhổ những cụm tre bên đường quật tan lũ giặc. Giặc chết như ngả rạ, đám tàn quân bị con đuối đến chân núi Sóc. Đến đấy, con bèn cởi áo giáp sắt gửi
lại trần gian rồi một mình cùng ngựa từ từ bay lên trời. Con chỉ thương hai vợ chồng ông bà lão.
Kể đến đây, tôi rất buồn, vẻ mặt buồn hướng xuống trần gian. Thấy thế Ngọc Hoàng hỏi ngay:
- Tại sao con ghi được chiến công lớn như vậy lại không ở lại trần gian để được nhân dân tôn sùng, được nhà vua ban thưởng?
- Thưa ngài! giúp dân là bổn phận của con. Song việc con sẽ lại về trời để sớm mong được nhận việc mới mà Ngài giao cho ạ!
- ồ! Ta rất vui mừng vì con đã có lòng với dân. Bây giờ con hãy đi nghỉ đi, ngày mai ta sẽ ban thưởng cho con.
- Đa tạ Ngọc Hoàng! nhưng con muốn xin ngài một điều ạ?
-Điều gì vậy?
Xin Ngọc Hoàng cho con được một lần nữa xuống thăm lại cha mẹ của con - vợ chồng ông bà lão và xem dân làng còn nhớ và nhận ra con không ạ!
- Việc đó con cứ yên tâm, đã có ta lo. Con cứ nghỉ ngơi. Ta sẽ cho người xuống trần gian thăm cha mẹ con và dân làng thay con.
- Cảm ơn Ngọc Hoàng!
Và thế là Ngọc Hoàng đã sai lính xuống trần gian, và tôi đã được biết rằng nhân dân và nhà vua đã phong cho tôi là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tại quê nhà. Biết được diều này tôi vô cùng sung sướng.
Hiện nay đền thờ tôi vẫn còn được bảo tồn ở làng Phù Đổng hay còn gọi là làng Gióng. Vào tháng tư hàng năm, để nhớ công ơn của tôi dân làng đã mở hội to lắm. Còn những bụi tre đăng ngà ở Gia Bình chính vì bị ngựa của tôi phun lửa thiêu cháy nên mới ngả màu vàng như vậy, những hồ ao liên tiếp kia cũng chính là do dấu chân ngựa năm xưa của tôi để lại. Năm ấy khi sông trận giết giặc ngựa của tôi hí vang trời, phun lửa và đã thiêu cháy một làng, cho nên sau này hạ giới đã gọi làng đó là lang Cháy


Câu trả lời:

Mỗi chúng ta ai cũng từng một lần được nếm trái những phút giây cay đắng, buồn tủi cũng như những phút giây hạnh phúc. Có những lúc niềm hạnh phúc lên tới tột đỉnh, tưởng chúng ta có thể tan biến đi trong niềm vui bất tận đó. Chế Lan Viên - một nhà thơ của dân tộc - cũng đã một lần có những phút giây thiêng liêng, quý giá như thế. Đó là khi ông trở về với nhân dân, tìm được lẽ sống cho cuộc đời mình, ông đã ghi lại sự kiện đó bằng những vần thơ thật xúc động:

Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ

Cỏ đón giềng hai, chim én gặp mùa

Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa

Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa

(Tiếng hát con tàu)

Một tiếng “con” thật nhỏ nhoi trước một tập thể vô cùng to lớn, đó là “nhân dân”. Chế Lan Viên xưng “con” vì ông cảm thấy mình thật bé bỏng trước đồng bào. Cách xưng hô đó cũng chứa đựng bao nhiêu niềm yêu mến thân thương của tác giả. Đứng trước nhân dân, tác giả thấy mình bé bỏng nhưng không lẻ loi vì nhân dân vẫn luôn dang rộng vòng tay đón ông như đón một người contrở về với đại gia đình thân thương của mình. Thật khó để diễn tả được niềm vui sướng của Chế Lan Viên lúc đó. Ông thấy mình như con nai về với suối cũ, như cỏ đón tháng giêng tháng hai, như đứa trẻ đang đói lòng bỗng gặp bầu sữa mẹ, như chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa. Một loạt các hình ảnh so sánh đều tập trung vào hai đối tượng: tác giả là con nai, là cỏ, là chim én, là đứa trẻ đói lòng, là chiếc nôi ngừng và nhân dân là suối cũ, là tháng giêng hai, là bầu sữa mẹ, là cánh tay đưa nôi. Ta đọc được trong những hình ảnh đó một niềm vui vô bờ. Còn gì sung sướng hơn khi con nai được về bên con suối mà nó đã từng uống nước ở đó bao nhiêu năm dài. Nó có thể sẽ ngơ ngác trước con suối đã quen mà thành lạ, nó có thể có một thoáng bâng khuâng nghĩ về quá khứ, nhưng giây phút đó sẽ qua mau để nhường lại cho niềm hạnh phúc. Con nai đó lại trở về với nhịp sống quen thuộc của mình, bên con suối thân thương. Và cũng còn gì sung sướng hơn khi cỏ gặp tháng giêng tháng hai, nó như được tiếp thêm nhựa sống trong những làn mưa bụi ngọt ngào, ướt lạnh để mơn mởn đâm chồi. Con chim én bay đi suốt mùa đông tránh rét, nó vui sướng khi lại được gặp mùa xuân, được chao liệng trên bầu trời ấm áp giờ đây như chỉ dành riêng cho nó. Ta cũng hình dung ra được cảnh một đứa trẻ đói lòng vồ vập nhận lấy dòng sữa ngọt ngào của người mẹ; một chiếc nôi ngừng đưa bỗng gặp một cánh tay dịu dàng đưa đẩy biết bao bỡ ngỡ mà cũng biết bao thân thương. Chế Lan Viên cũng vậy, ông cũng thấy thật mới mẻ, ngỡ ngàng trong những điều tưởng chừng đã quen thuộc. Ta hiểu rằng sự trở về của Chế Lan Viên là sự trở về của tinh thần, ông đã tìm được cho mình một chân lí, đó là đi theo tiếng nói chung của đồng bào, của dân tộc.

Đọc đoạn thơ, ta như thấy tác giả nghẹn ngào, rưng rưng lệ. Nhưng đó là sự xúc động vì niềm vui tìm được lẽ sống đích thực của cuộc đời mình. Không còn đâu nữa bóng dáng của một thi sĩ lãng mạn than khóc trước tháp Chàm đổ nát, trước những bức tượng vũ nữ apsara hoen ố rêu phong. Mùa xuân đến với Chế Lan Viên giờ đây không phải là mùa xuân của khổ đau, sầu não nữa mà là mùa xuân tươi vui, đầy sức sống. Giờ đây người thi sĩ ấy đã đến với ánh sáng của cách mạng, cùng vững bước trên con đường dân tộc đang đi. Đó là sự trở về kịp thời nhất. Ta có cảm giác nếu như không có giây phút ấy Chế Lan Viên sẽ day dứt, tiếc nuối suốt cuộc đời còn lại của mình.

Đoạn thơ có âm điệu tươi vui, trẻ trung nhưng vẫn có một thoáng ân hận cửa người con lầm lạc trở về với người mẹ Nhân dân đầy nhân ái, bao dung. Tâm trạng đó của nhà thơ Chế Lan Viên cũng là tâm trạng chung của các nhà thơ lãng mạn bấy giờ khi họ tìm đến với chân lí cách mạng. Đó là những giây phút trọng đại, đánh dấu bước thay đổi lớn trong cuộc đời các thi sĩ và cũng là những giây phút lịch sử khi dân tộc dang rộng vòng tay đón nhận sự trở về của những đứa con đã từng đi lầm đường. Hiểu được điều đó, ta càng cảm thông và trân trọng hơn những vần thơ như thế.

Câu trả lời:

Có một số nhân tố sau đây làm nên thiên tài Nguyễn Du:
1 Tư chất thông minh: ND ngay từ nhỏ đã rất thông minh, đõ tam trường thi hương 1783.
2 Gia đình: gia đình ND vốn giàu truyền thống văn hoc, cha là Nguyễn Nghiễm đõ tiến sĩ và làm đến chức tể tướng thời Lê.
3 Biến động xã hội: chế độ phong kiến VN khủng hoảng trầm trọng, giai cấp thống trị thối nát, khởi nghĩa nổ ra khắp nơi. Đặc biệt là cuộc khởi ngiã Tây Sơn. Vốn trung thành với nhà Lê nên ông từng chống lại TS, nhưng thất bại, trốn vào Nam theo Nguyễn ÁNh, việc bị lộ, ông bị bắt giam, ít lâu được tha. Ông lưu lạc nhiều năm (1786 - 1796), rồi về ở ẩn (1796 - 1802), nếm đủ mùi gian khổ. Trong thời gian này ông rất thông cảm với nhiều nỗi đau thương khổ cực của nhân dân. N.Anh vời ông ra là quan, được cử đi sứ TQuốc 2 lần
4 Trái tim nhân đạo: trong dịp đi sứ ông đã cảm nhận được ở đâu người dân cũng đều bị áp bức bất công, điều đó làm ông vô cùng xót xa (sở kiến hành, độc tiểu thanh kí,..). chính một con người từng trải nhưng phải có trái tim giàu lòng thương yêu mới có thể để lại cho hâu thế nhiều kiết tác , trong đó, có TKiều. TK là một sáng tạo độc đáo của ND, là đỉnh cao của thơ lục bát dân tộc, là tiếng kêu xé lòng cho cuộc đời và số phận chủa người phụ nữ trong xã hội xưa.
5 Ham học hỏi: ông rất chịu khó học tập trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, trong lao đông rồi tinh lọc tất cả để đưa vào trong tác phẩm của mình. khiến cho câu từ trong các tác phẩm của ông (nhất là truyện Kiều) khó lòng ai thây thế được bằng câu chữ khác mà hay bằng ông.

Câu trả lời:

Mỗi năm, khi đến cuối thu, tôi lại ngắm nhìn các em nhỏ tung tăng đến trường trong bộ đồng phục trắng tinh và tươm tất. Các em nhỏ đã gợi lại cho tôi những kỉ niệm của buổi tựa trường đầu tiên trong thời thơ ấu của mình. Có lẽ, tôi sẽ không quên được cái ngày đặc biệt đấy - ngày mở rộng con đường tri thức của tôi. Cái đêm trước ngày khai trường, tôi không sao ngủ được. Có rất nhiều cảm xúc trong tôi đan xen lẫn nhau khiến lòng tôi lại thêm rạo rực. Nằm trằn trọc mãi mà tôi không sao ngủ được nên tôi đã đi đến trước tủ đồ riêng của tôi để mân mê chiếc cặp mới, những quyển vở còn thơm mùi giấy và bộ đồng phục mới tinh mà mẹ mua cho tôi vài hôm trước. Được một lúc tôi cũng cảm thấy buồn ngủ nên tôi liền lên giường và ngủ thật say đến sáng.

Sáng tinh mơ hôm ấy, khi khí trời còn se se lạnh thì thật kì lạ! Tôi dạy sớm hơn thường ngày mà không cần đến báo thức hay ai đó gọi. Thế rồi tôi liền vệ sinh cá nhân, ăn sáng thật nhanh để thay ngay bộ đồng phục mới. Có lẽ bởi từ khi còn học mẫu giáo tôi thường mặc những bộ đồ giống như ở nhà nên khi khoác vào mình bộ đồng phục mới tinh này thì tôi cảm giác mình đã chững chạc hơn rất nhiều. Thay bộ đồng phục sau thì bỗng rưng lòng tôi lại nôn nao, nôn nao đến nỗi tôi chỉ nghĩ đến quang cảnh trong ngày khai trường đầu tiên mà quên béng đi chỗ để chiếc cặp và những thứ tôi đã chuẩn bị. Tôi liền chạy toáng lên kiếm khắp nhà và la hét om xòm để tìm chiếc cặp và những thứ mà tôi đã chuẩn bị. Nhưng rồi để giữ sự bình tĩnh và tỉnh táo trong ngày khai trường đầu tiên thì tôi tự nhủ rằng: "Mình đã lớn hơn rồi, không cần phải làm ầm ầm lên như thế". Thế rồi tôi liền chạy nhanh vào phòng mẹ tôi, tôi kể lại cho mẹ nghe thì mẹ tôi cười mỉm rồi xoa đầu tôi bảo: "Con cứ ra trước cửa đợi mẹ, mẹ sẽ đem hết ra và hai mẹ con mình cùng đi đến trường nhé!". Nghe mẹ nói xong, lòng tôi bỗng nhẹ đi phần nào. Lúc bước ra khỏi nhà, mọi thứ trước mắt tôi dường như lạ lùng thay đổi hoàn toàn khiến tôi nắm tay mẹ tôi chặt hơn. Con xóm nhỏ thân thuộc bỗng dưng trở nên xa lạ với tôi. Phía đông, mặt trời tròn xoe từ từ nhô lên sau từng hàng tre xanh, thẳng tắp. Những tia nắng chiếu xuyên qua những khe hở nhỏ của hàng tre trông thật huyền ảo làm sao! Đi được một lúc thì tôi gặp được thằng Khanh và nhỏ Yên cũng đến trường như tôi. Tôi còn nhớ cả đám còn thân thiết, chơi đùa, chia kẹo hôm nào thì bây giờ cũng trưởng thành hơn. Nhìn vẻ mặt lo sợ, lúng túng của bọn nó khiến tôi càng trở nên lo lắng. Gần đến trường, tôi thấy có rất nhiều anh chị khối lớn đang choàng tay nhau, nói chuyện trông vô tư lắm. Chả như bọn "lính mới" chúng tôi, phải đợi cha, đợi mẹ dẫn đến tận lớp. Tôi cũng nhận ra vẻ mặt vui tươi, hớn hở của từng bậc phụ huynh, chắc vì họ thấy con cái mình đã khôn lớn hơn, biết nắm lấy chiếc chìa khóa dẫn đến một tương lai sáng lạng. Tôi cũng mừng vì mình đã khôn lớn, biết suy nghĩ hơn trước. Tôi chỉnh tề trong bộ đồng phục cho tươm tất để trông tôi thật bảnh bao trước mặt bạn và tôi cùng mẹ bước vào trường.

Ngôi trường này trông khang trang hơn ngôi trường mẫu giáo của tôi rất nhiều. Ngay trên phía cổng trường một biển hiệu đề: "Trường tiểu học Nhật Lương" và có rất nhiều họa tiết trên cổng trường. Không khí trong trường rộn rã, náo nhiệt hơn so với bên ngoài. Trong khuôn viên trường, xung quanh là những chậu cây được xếp đều nhau tạo ra một cái đẹp rất bắt mắt. Hai bên góc trường là hai cây phượng to, đẹp đẽ với những cành lá xum xuê. Trong sân trường, những hàng ghế được xếp thẳng đều nhau. Lá cờ tổ quốc được đặt ở giữa trường tôi trông thật lộng lẫy trong màu cờ đỏ sao vàng. Trước mắt tôi là lễ đài thật rộng lớn, có một dòng chữ "Mừng các em học sinh mới vào trường" và thêm một dòng chữ bên phải "Mừng ngày khai trường". Khuôn viên trường rộn rã, náo nhiệt rồi bỗng có tiếng trống "tùng...tùng...tùng" báo hiệu đã đến giờ bắt đầu buổi lễ khai trường đầu tiên. Sau đó, cô hiệu trưởng từ từ bước lên lễ đài và bắt đầu bài phát biểu của mình để chào đón các em học sinh mới. Làm lễ xong, lại có một hồi trống "tùng...tùng...tùng" báo hiệu giờ nhận lớp và giáo viên mới để lên lớp. Được bước đến trước dãy hàng lớp tôi, cô nói: "Từ giờ cô sẽ là giáo viên chủ nhiệm của các em". Nói xong, cô hướng dẫn cả lớp đi theo hàng sát bên phải cầu thang. Khi bắt đầu lên lớp thì tôi thấy các bạn khác khóc mếu rồi chạy lại ôm cha, ôm mẹ của mình một cách nức nở khiến tôi cũng khóc theo. Mẹ tôi liền đến bên tôi và dỗ dành tôi. Mẹ nói rằng: "Con giáng học đi, học rất có ích cho con và con sẽ được làm quen với các bạn nhiều hơn". Nói xong, mẹ lau hết nước mắt cho tôi rồi lùi ra xa, vẫy tay chào tôi để tôi tự đi lên lớp của mình. Tôi quay lại và nhìn mẹ. Tôi thấy gương mẹ rất hạnh phúc khi thấy tôi được đến trường như các bạn khác. Để không làm tan vỡ niềm hạnh phúc đó tôi liền đi lên lớp cùng với một vài bạn cùng lớp.

Lớp học tôi nằm ở giữa khu A và B trên lầu hai. Khi tới trước lớp, tôi thấy lớp tôi có đề lớp 1E. Trong lớp, những hàng bàn ghế được xếp ngay ngắn trông rất gọn gàng. Xung quanh lớp là những bước tường hoa kèn, vài họa tiết thiếu nhi trông rất đáng yêu. Cả lớp được cô phân công chỗ ngồi và chức vụ thì cô nói bắt đầu vào bài học đầu tiên.

Nét chữ cô trông rất đẹp! Những dòng chữ viết bằng phấn trên bảng cô đều viết hết sức tỉ mỉ và rõ ràng để chúng em được thấy rõ. Lúc cô giảng về bài toán cộng đầu tiên, giọng nói cô ấm áp làm sao. Nó nhẹ nhàng in sâu vào lòng tôi, những con số thật thú vị. Tôi liền suy nghĩ trong đầu rằng: "Mình phải cố gắng học để không phụ lòng mẹ. Quyết tâm! Quyết tâm". Thế rồi tôi liền chú ý lắng nghe bài giảng của cô. Cứ môn này rồi đến môn kia, và giờ tan học cuối cùng đã đến. Mẹ tôi đã đợi tôi sẵn từ bên cạnh trường từ khi nào. Khi thấy mẹ, tôi mừng rõ và chạy ngay đến đó rồi ôm mẹ và ôm. Tôi kể cho mẹ nghe những chuyện xảy ra hôm nay rồi mẹ dắt tay đi về.

Buổi tựu trường đầu tiên đã là một phần quan trọng trong tim tôi mà tôi sẽ ghi nhớ suốt cuộc đời này.

Câu trả lời:

Mỗi người đều mang trong mình những ước mơ dù lớn, dù nhỏ. Cuộc đời sẽ tẻ nhạt, vô nghĩa biết bao khi con người ta sống không có ước mơ, khát vọng.

Qủa thật, ước mơ là nhựa sống để nuôi dưỡng tâm hồn ta lớn lên, giúp ta sống có mục đích, có tương lai, hạnh phúc vì vậy “Ở trên đời, mọi chuyện đều không có gì khó khăn nếu ước mơ của mình đủ lớn”.

Ước mơ là những điều tốt đẹp ở phía trước mà con người tha thiết, khao khát, ước mong hướng tới, đạt được. Có người đã ví: “Ước mơ giống như ngọn hải đăng, chúng ta là những con thuyền giữa biển khơi bao la, ngọn hải đăng thắp sáng giúp cho con thuyền của chúng ta đi được tới bờ mà không bị mất phương hướng”. Sự ví von quả thật chí lí, giúp ta hiểu rõ hơn, đúng hơn về ước mơ của mình. Nhà thơ Tố Hữu từng nói “Ước mơ con đè nát đời con” Con người sống cần có ước mơ nhưng nếu ước mơ quá nhỏ bé tầm thường thì lại là yếu tố kìm hãm sự thành công của chính đời mình. Vì vậy, Ước mơ phải đủ lớn. Tức là ước mơ khởi đầu từ điều nhỏ bé, trải qua một quá trình nuôi dưỡng, phấn đấu, vượt những khó khăn trở ngại để trở thành hiện thực.

Ước mơ của mỗi người trong cuộc đời cũng thật phong phú. Có những ước mơ nhỏ bé, bình dị, có những ước mơ lớn lao, cao cả; có ước mơ vụt đến rồi vụt đi; ước mơ bay theo đời người; ước mơ là vô tận. Thật tẻ nhạt, vô nghĩa khi cuộc đời không có những ước mơ!

Ước mơ của mỗi người cũng như một cái cây phải được ươm mầm, chăm sóc, vun bón rồi mới trưởng thành. Một cây đa cổ thụ cũng phải bắt đầu từ một hạt giống được gieo và nảy mầm rồi dần lớn lên. Như vậy, ước mơ phải bắt đầu từ những điều nhỏ bé và được nuôi dưỡng mà thành. Nhưng để ước mơ lớn lên, trưởng thành thì không dễ dàng mà có được. Nó phải trải qua bao thăng trầm, vinh nhục, thậm chí phải nếm mùi cay đắng, thất bại. Nếu con người vượt qua được những thử thách, trở ngại, kiên định theo đuổi ước mơ, khát vọng, lí tưởng của mình thì sẽ đạt được điều mình mong muốn.

Nhìn ra cuộc sống ta sẽ thấy có biết bao tấm gương sáng biết biến ước mơ thành hiện thực bằng chính sự nỗ lực cố gắng của mình. Ước mơ của chủ tịch Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho dân mình. Trải qua bao gian khổ khó khăn và hy sinh, Người đã đạt được điều mình mơ ước. Nhiều nhà tư tưởng lớn, những nhà khoa học, những người bị khuyết tật họ vẫn vươn tới, đạp bằng mọi khó khăn, cản trở trong cuộc sống để đạt được mơ ước của mình. Ngay trong những ngôi trường trên mảnh đất Vĩnh Phúc thân yêu của chúng ta cũng có biết bao tấm gương sáng biết biến ước mơ thành hiện thực. Em Nguyễn Văn Thình –cựu học sinh của trường THPT Nguyễn Viết Xuân chính là một minh chứng tiêu biểu. Sinh ra trong gia đình thuần nông, ngay từ nhỏ Thình đã phải chịu nỗi đau lớn về tinh thần là mất cả cha và mẹ. Em lớn lên nhờ sự đùm bọc yêu thương của người bà. Nhưng với ý chí và nghị lực vươn lên, Thình đã cố gắng học tập thật tốt, theo đuổi ước mơ trở thành bác sĩ để chữa bệnh cho bà và mọi người. Giờ đây, em đã trở thành sinh viên năm thứ hai của trường Đại học y Hà Nội.

Bên cạnh những người sống có ước mơ và cố gắng theo đuổi ước mơ thì ngoài kia cũng có biết bao bạn trẻ có lối sống đáng lên án . Họ sống không mục đích lí tưởng, thiếu ý chí, nghị lực, lười biếng, ăn bám, dựa dẫm vào cha mẹ. Có những người đổ lỗi cho số phận mà không chịu cố gắng vươn lên. Cũng có những người vấp ngã một lần mà nản lòng, nhụt chí không muốn bước tiếp nữa.Thậm chí có những người tìm đến cái chết sau một lần thất bại trong tình yêu, học tập hay công việc .

Thực tế trong cuộc sống, ước mơ có thể thành, có thể không nhưng đừng vì vậy mà ta không mơ ước. Nếu sợ thất bại mà không dám ước mơ, hay không đủ ý chí, nghị lực mà nuôi dưỡng ước mơ “đủ lớn” thì thật đáng tiếc, đáng phê phán ! Cuộc đời sẽ chẳng đạt được điều gì tốt đẹp nếu sống không có ước mơ. Bởi nếu cuộc đời là chiếc thuyền thì ước mơ là ngọn hải đăng. Thuyền gặp nhiều phong ba, ngọn hải đăng sẽ là niềm tin, ánh sáng thuyền hướng tới. Mất ngọn hải đăng, con thuyền biết đi đâu về đâu? Vì thế, hai chữ “ước mơ” thật đẹp, thật lớn lao. Mỗi người chúng ta hãy có cho mình một ước mơ, hi vọng. Nếu ai đó sống không có ước mơ, khát vọng thì cuộc đời sẽ tẻ nhạt, vô nghĩa biết nhường nào!

Điều tôi muốn nói ở đây là mỗi chúng ta hãy biết ước mơ và cần tự cố gắng để biến nó thành hiện thực bằng chính niềm tin và nghị lực của mình bạn ạ ! Tôi bỗng nhớ đến một câu hát “Mỗi người cần có một ước mơ, nhỏ bé mà lớn lao trong cuộc đời