Bài viết Chuẩn bị hành trang vào thể kỉ mới của Phó Thủ tướng Vũ Khoan đăng trên tạp chí Tia sáng năm 2001 và in trong cuốn Một góc nhìn của trí thức (NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2002). Tác giả đã thẳng thắn đề cập tới một vấn đề "nhạy cảm” mà từ trước đến giờ ít người dám bàn tới. Đó là mặt mạnh, mặt yếu của con người Việt Nam và sự cấp thiết phải đổi mới bản thân con người để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thời đại tri thức, khoa học kĩ thuật tiên tiến.
Lâu nay, khi nói tới phẩm chất của con người Việt Nam, chúng ta thường nhấn mạnh đến những đức tính tốt đẹp như lòng yêu nước, tinh thần cộng đồng, đức tính cần cù, dũng cảm, kiên trì, thông minh, sáng tạo… Những phẩm chất ấy đã được chứng minh trong thực tế lịch sử mấy ngàn năm, đặc biệt là qua các cuộc đấu tranh giữ nước.
Giống như các dân tộc khác trên thế giới, dân tộc Việt Nam bên cạnh những mặt mạnh cũng có không ít những mặt yếu. Nhận thức được những cái mạnh, đặc biệt là nhìn rõ những cái yếu của mình là điều hết sức cần thiết để một dân tộc, một đất nước tiến lến phía trước, vượt qua những trở ngại thách thức ở mỗi chặng đường lịch sử.
Hiện nay, dân tộc ta đang đứng trước những cơ hội mới để đưa đất nước tiến lên trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vượt qua tình trạng nghèo nàn, lạc hậu để trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào thời điểm 2020. Bước vào thế kỉ mới, với chúng ta cũng có nghĩa là bước vào cuộc hành trình với rất nhiều triển vọng tốt đẹp ở phía trước, nhưng cũng đầy khó khăn, thách thức, đòi hỏi các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ phải vươn lên mạnh mẽ, thực sự đổi mới để đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của thời đại.
Bài viết Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới của Phó Thủ tướng Vũ Khoan đã nêu ra chính xác và rất kịp thời những vấn đề trên, nhằm hướng tới thế hệ trẻ – bởi họ chính là lực lượng quyết định thành công sự nghiệp xây dựng đất nước trong thế kỉ mới.
Để chuẩn bị hành trang bước vào thế kỉ mới, thế hệ trẻ Việt Nam cần nhìn rõ điểm mạnh và điểm yếu của con người Việt Nam, từ đó rèn luyện cho mình những đức tính và thói quen tốt. Điểm mạnh của con người Việt Nam là thông minh, nhạy bén với cái mới, cần cù sáng tạo, đoàn kết đùm bọc lẫn nhau trong các cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Bên cạnh đó cũng có nhiều điểm yếu cần phải khắc phục: thiếu kiến thức cơ bản, kém khả năng thực hành, thiếu đức tính tỉ mỉ, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình công nghệ, thiếu tính cộng đồng trong làm ăn. Để đưa đất nước đi lên, chúng ta cần phát huy những điểm mạnh, khắc phục những điểm yếu, cố gắng hình thành những thói quen tốt ngay từ những việc nhỏ.
Đây là một bài văn nghị luận xã hội, nội dung đề cập những vấn đề vừa có ý nghĩa thời sự cấp thiết, vừa có ý nghĩa lâu dài. Tác giả không dùng cách viết theo kiểu sách vở, uyên bác, mà bằng cách diễn đạt giản dị, thiết thực, dựa trên cơ sở thực tiễn, ai cũng có thể hiểu được, nhưng không phải vì thế mà bài viết thiếu sâu sắc. Giá trị và sức thuyết phục của nó nằm ở ngay vấn đề mà tác giả đặt ra; ở cách nhìn nhận khách quan, đúng đắn; ở những lời lẽ và cách lập luận giản dị mà chặt chẽ; cuối cùng là ở thái độ tôn trọng và tinh thần trách nhiệm cao của tác giả.
Tác giả đã thể hiện thái độ khách quan qua cách lập luận thấu lí đạt tình, qua cách sử dụng từ ngữ chọn lọc, chính xác, qua giọng diệu trầm tĩnh, chín chắn, giàu sức thuyết phục.
Thời điểm mà tác giả viết bài này là vào đầu năm 2001, khi đất nước ta cùng toàn thế giới bước vào năm đầu tiên của thế kỉ XXI. Thông thường sau một thời gian dài, chuẩn bị bước vào một chặng đường mới, người ta thường nhìn lại, kiểm điểm lại xem những gì được, những gì chưa được để rút kinh nghiệm và chuẩn bị hành trang bước tiếp.
Thời điểm này có ý nghĩa đặc biệt vì đó là sự chuyển giao giữa hai thế kỉ và hai thiên niên kỉ. Riêng đối với dân tộc ta, thời điểm này lại càng có ý nghĩa quan trọng bởi vì công cuộc đổi mới bắt đầu từ thập kỉ 80 của thế kỉ trước, cho đến nay, đất nước ta đã đạt được những thành quả vững chắc. Bước sang thế kỉ XXI, Đảng và Nhà nước đặt ra mục tiêu phấn đấu rất cao là đến năm 2020, đất nước ta sẽ xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu để trở thành một quốc gia công nghiệp hiện đại. Vì vậy, bài viết của tác giả Vũ Khoan có ý nghĩa thời sự rất kịp thời.
Đề tài mà tác giả bàn luận đã được nêu rõ trong nhan đề: Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới. Luận đề hay chủ đề của bài viết được tác giả nêu lên ngay trong câu đầu: Lớp trẻ Việt Nam cần nhận ra những cái mạnh, cái yếu của con người Việt Nam để rèn những thói quen tốt khi bước vào nền kinh tế mới.
Vấn đề này không chỉ có ý nghĩa thời sự trong thời điểm chuyển giao thế kỉ mà còn có ý nghĩa lâu dài đối với cả quá trình đi lên của đất nước. Bởi vì, nhận rõ cái mạnh, cái yếu, phát huy cái mạnh và khắc phục cái yếu là điều kiện hết sức cần thiết cho mỗi con người trong giai đoạn mới. Điều đó lại càng cần thiết đối với cả dân tộc khi thực sự bắt tay vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong xu thế hội nhập quốc tế, trong nền kinh tế thị trường có xu hướng toàn cầu hóa hiện nay.
Phần thân bài được chia làm ba đoạn tương ứng với ba luận điểm. Hệ thông luận điểm trong bài văn rất rõ ràng và hợp lí. Ta lần lượt tìm hiểu, tóm tắt ý của từng luận điểm để thấy sự liên kết giữa từng luận điểm với toàn bài.
Luận điểm một: Tết năm nay đến… lại càng nổi trội: Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới thì quan trọng nhất là sự chuẩn bị bản thân con người.
Luận điểm hai: Từ Cần chuẩn bị đến… điểm mạnh và điểm yếu của nó: Bối cảnh của thế giới hiện nay và những mục tiêu, nhiệm vụ nặng nề của đất nước.
Luận điểm ba. Từ Cái mạnh của con người đến… thường đố kị nhau: Những cái mạnh, cái yếu của con người Việt Nam cần được nhận rõ khi bước vào nền kinh tế mới trong thể kỉ mới.
Phần còn lại: Kết thúc bài viết.
Chúng ta lần lượt tìm hiểu và phân tích từng luận điểm. Ở luận điểm I, tác giả khẳng định con người là quan trọng nhất. Đây là luận điểm quan trọng mở đầu cho cả hệ thống luận điểm của bài. Nó có ý nghĩa đặt vấn đề, mở ra Hướng lập luận của toàn bài:
Tết năm nay là sự chuyển tiếp giữa hai thế kỉ, và hơn thế nữa, là sự chuyển tiếp giữa hai thiên niên kỉ. Trong thời khắc như vậy, ai ai cũng nói tới việc chuẩn bị hành trang bước vào thế kỉ mới, thiến niên kỉ mới.
Trong những hành trang ấy, có thể sự chuẩn bị bản thân con người là quan trọng nhất. Từ có chí kim, bao giờ con người cũng là động lực phát triển lịch sử; Trong thế kỉ tới mà ai ai cũng thừa nhận rằng nền kinh tế tri thức sề phát triển mạnh mẽ thì vai trò con người lại càng nổi trội.
Các lí lẽ nêu lên để chứng minh cho luận điểm này là:
+ Đó là sự chuyển tiếp hai thế kỉ, hai thiên niên kỉ. Hành trang bước vào thế kỉ mới gồm có nhiều thứ nhưng chuẩn bị cho con người là yếu tố quan trọng nhất. Bởi vì đó là quy luật lịch sử, quy luật của nền kinh tế tri thức kinh tế thị trường. Con người quyết định sự phát triển của lịch sử.
+ Từ cổ chí kim, bao giờ con người cũng là đẳng lực phát triển của lịch sử.
+ Trong thời kì nền kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ thì vai trò của con người lại càng nổi trội.
Trên cơ sở luận điểm thứ nhất, tác giả triển khai luận điểm thứ hai để chứng minh vì sao đầu tư cho con người là quan trọng nhất. Luận điểm này được triển khai trong hai ý:
+ Một thế giới mà khoa học công nghệ phát triển như huyền thoại thì sự giao thoa, hội nhập sẽ ngày càng phát triển sâu rộng giữa các nền kinh tế.
Tác giả nhấn mạnh:
Cần chuẩn bị những cái cần thiết trong hành trang mang vào thế kỉ mới trong khi chúng ta đã chứng kiến sự phát triển như huyền thoại của khoa học và công nghệ, làm cho tỉ trọng trí tuệ trong một sản phẩm ngày càng lớn. Chắc rằng chiều hướng này sẽ ngày càng gia tăng. Một phần dưới tác động của những tiến bộ về khoa học và công nghệ, sự giao thoa, hội nhập giữa các nền kinh tế chắc chắn sẽ sâu rộng hơn nhiều.
+ Trong tình hình đó, nước ta phải đồng thời giải quyết ba nhiệm vụ:
Trong một thế giới như vậy, nước ta lại phải cùng một lúc giải quyết ba nhiệm vụ: thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu của nền kinh tế nông nghiệp; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đồng thời lại phải tiếp cận ngay với nền kinh tế tri thức. Làm nên sự nghiệp ấy đương nhiên là những con người Việt Nam với những điểm mạnh và điểm yếu của nó.
Tác giả đã chuyển tiếp thật khéo léo từ luận điểm thứ hai sang luận điểm thứ ba. Đó là những cái mạnh, cái yếu của con người Việt Nam Cần được nhìn nhận rõ ràng trước khi bước vào nền kinh tế tri thức trong thế kỉ mới.
Thái độ của tác giả khi nêu lên những điểm mạnh, điểm yếu của con người Việt Nam là đúng đắn, khách quan và chân thành. Đây là luận điểm trung tâm quan trọng nhất của bài viết nên đã được tác giả phân tích cụ thể và thấu đáo.
Những điểm mạnh, điểm yếu trong tính cách và thói quen của con người Việt Nam có quan hệ như thế nào với nhiệm vụ đưa đất nước tiến lên nền công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời đại hiện nay?
Điều đáng chú ý ở phần này là tác giả vừa nêu ra từng điểm mạnh, vừa nêu ra từng điểm yếu để đối chiếu. Cách nhìn nhận, đánh giá như vậy là hợp lí vì trong cái mạnh thường chứa đựng cái yếu. Điều đáng chú ý nữa là cái mạnh, cái yếu luôn được tác giả phân tích trong hoàn cảnh xây dựng và phát triển đất nước hiện nay, chứ không phải chỉ nhìn nhận nó trong quá khứ lịch sử. Tác giả nêu ra nhũng cái mạnh, cái yếu của người Việt Nam là: Người Việt Nam thông minh, nhạy bén với cái mới nhưng thiếu kiên thức cơ bản, kém khả năng thực hành.
Cái mạnh của con người Việt Nam không chỉ chúng ta nhận biết mà cả thế giới đều thừa nhận là sự thông minh, nhạy bén với cái mới. Bản chất trời phú ấy rất có ích trong xã hội ngày mai mà sự sáng tạo là một yếu cầu hàng đầu. Nhưng bên cạnh cái mạnh đó cũng còn tồn tại không ít cái yếu. ấy là những lỗ hổng về kiến thức cơ bản do thiên hướng chạy theo những môn học “thời thượng”, nhất là khả năng thực hành và sáng tạo bị hạn chế do lối học chay, học vẹt nặng nề. Không nhanh chóng lấp những lỗ hổng này thì thật khó bề phát huy trí thông minh vốn có và không thể thích ứng với nền kinh tế mới chứa đựng đầy tri thức cơ bản và biến đổi không ngừng.
Người Việt Nam cần cù, sáng tạo nhưng thiếu đức tính tỉ mỉ, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình công nghệ, chưa quen với cường độ khẩn trương.
Cái mạnh của con người Việt Nam ta là sự cần cù, sáng tạo. Điều đó thật hữu ích trong một nền kinh tế đòi hỏi tinh thần kỉ luật cao và thái độ nghiêm túc đối với công cụ và quy trình lao động với những máy móc, thiết bị rất tinh vi. Tiếc rằng ngay trong mặt mạnh này của chúng ta cũng lại ẩn chứa những khuyết tật không tương tác chút nào với một nền kinh tế công nghiệp hóa chứ chưa nói tới nền kinh tế tri thức. Người Việt Nam ta cần cù thì cần cù thật, nhưng lại thiếu đức tính tỉ mỉ. Khác với người Nhật vốn củng nổi tiếng cần cù lại thường rất cẩn trọng trong khâu chuẩn bị công việc, làm cái gì cũng tính toán chi li từ đầu, người Việt Nam ta thường dựa vào tính tháo vát của mình, hành động theo phương châm “nước đến chân mới nhảy”, “liệu cơm gắp mắm”. Do còn chịu ảnh hưởng nặng nề của phương thức sản xuất nhỏ và cách sống ở nơi thôn dã vốn thoải mái và thanh thản nên người Việt Nam ta chưa có được thói quen tôn trọng những quy định nghiêm ngặt của công việc là cường độ khẩn trương. Ngay bản tính “sáng tạo” một phần nào đó cũng có mặt trái ở chỗ ta hay loay hoay “cải tiến”, làm tắt, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình công nghệ. Trong một xã hội công nghiệp và “hậu công nghiệp” những khuyết tật ấy sẽ là những vật cản ghê gớm.
Người Việt Nam có tinh thần đoàn kết, đùm bọc, yêu thương nhau trong các cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, nhưng lại thường đố kị nhau trong làm ăn và trong cuộc sống thường ngày:
Trong một “thế giới mạng”, ở đó hàng triệu người trên phạm vi toàn cầu gắn kết với nhau trong một mạng in-tơ-nét thì tính cộng đồng là một đòi hỏi không thể thiếu được. Nhân dân ta có truyền thống lâu đời đùm bọc, đoàn kết với nhau theo phương châm “nhiễu điều phủ lấy giá gương”. Bản sắc này thể hiện mạnh mẽ nhất trong cảnh đất nước lâm nguy ngoại bang đe dọa. Nhưng tiếc rằng phẩm chất cao quý ấy thường lại không đậm nét trong việc làm ăn, có thể do ảnh hưởng của phương thức sản xuất nhỏ tính đố kị vốn có của lối sống theo thứ bậc không phải theo năng lực và lối nghĩ “trâu buộc ghét trậu ăn” đôi với người hơn mình ở làng quê thời phong kiến. Ta có thề quan sát thấy điều đó ngay trọng cả những việc nhỏ nhặt : Ví dụ vào thăm bảo tàng thì người Nhật túm tụm vào với nhau chăm chú nghe thuyết minh, còn người Việt Nam ta lại lập tức tản ra xem những thứ mình thích người Hoa ở nước ngoài thường cựu mang nhau song người Việt lại thường đố kị nhau…
Người Việt thích ứng nhanh nhưng lại có nhiều hạn chế trong thói quen và nếp nghĩ, kì thị kinh doanh, quen với lối sống bao cấp, có thói sùng ngoại hoặc bái ngoại quá mức, thói “khôn vặt”, ít giữ chữ "tín”:
Bước vào thế kỉ mới, nước ta sẽ hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới. Bản tính thích ứng nhanh sẽ giúp dân ta tận dụng những cơ hội, ứng phó với thách thức do tiến trình hội nhập đem lại. Nhưng thái độ kì thị đối với sự kinh doanh, thói quen ảnh hưởng sự bao cấp, nếp nghĩ sùng ngoại hoặc bài ngoại quá mức đều sẽ cản trở sự phát triển của đất nước. Thói quen ở không ít người thích tỏ ra “khôn vặt”, “bóc ngắn cắn dài”, không coi trọng chữ “tín” sẽ gây tác hại khôn lường trong quá trình kinh doanh và hội nhập.
Lâu nay, khi nói đến tính cách và phẩm chất của con người Việt Nam, chúng ta thường thiên về khẳng định những cái hay, cái tốt, cái mạnh. Điều này không phải không có cơ sở và cũng là cần thiết, nhất là khi chúng ta cần phát huy sức mạnh dân tộc trong cuộc chiến đấu chống xâm lăng, giành lại độc lập và thống nhất Tổ quốc. Nhưng mặt khác, nếu chỉ khẳng định những ưu điểm, mặt mạnh mà bỏ qua những hạn chế và nhược điếm thì sè dẫn đến tình trạng hiểu không đúng về dân tộc mình, ngộ nhận, tự đề cao quá mức, dẫn đến tâm lí tự mãn, không cần học tập người khác. Tâm lí ấy có hại và cản trở sự vươn lên phát triển của đất nước, nhất là trong bối cảnh thế giới hiện nay. Lòng yêu nước đòi hỏi mọi người phải nhìn rõ cả mặt mạnh và mặt yếu của dân tộc mình, từ đó có sự thôi thúc vươn lên, vứt bỏ những cái yếu kém, vượt qua những hạn chế để có thể sánh vai với những quốc gia phát triển, văn minh, tiến bộ.
Thái độ của tác giả là tôn trọng sự thực, nhìn nhận vấn đề một cách khách quan, toàn diện, không thiên lệch về một phía, khẳng định và trân trọng những phẩm chất tốt đẹp, đồng thời cũng thẳng thắn chỉ ra những mặt yếu kém, không rơi vào sự đề cao quá mức hay tự ti, miệt thị dân tộc. Tác giả nhận thức rất rõ những mặt mạnh, mặt yếu trong tính cách và thói quen của con người Việt Nam, đưa ra đề nghị phải khắc phục cái yếu, hình thành những đức tính và thói quen tốt khi đất nước đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thế kỉ mới.
Trong phần kết luận, tác giả viết:
Bước vào thế kỉ mới, muốn “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” thì chúng ta sẽ phải lấp đầy hành trang bằng những điểm mạnh, vứt bỏ những điểm yếu. Muốn vậy thì khâu đầu tiên, có ý nghĩa quyết định là hãy làm cho lớp trẻ – những người chủ thực sự của đất nước trong thế kỉ tới – nhận ta điều đó, quen dần với những thói quen tốt đẹp ngay từ những việc nhỏ nhất.
Bài viết trên đây của Phó thủ tướng Vũ Khoan đã đề cập tới một vấn đề thiết yếu đối với dân tộc ta trước một thời điểm lịch sử quan trọng. Tuy vậy, tác giả không dùng cách nói uyên bác, khó hiểu mà dùng cách nói giản dị, dễ hiểu; sử dụng khá nhiều thành ngữ, tục ngữ vừa sinh động, cụ thể lại vừa ý vị, ngắn gọn mà hàm súc.
Qua bài viết, chúng ta càng thấy rõ những điểm mạnh, điểm yếu của mình và có phương hướng hành động khắc phục cái yếu, xây dựng những thái quen tốt, bắt đầu từ những việc nhỏ trong sinh hoạt và học tập, để sau này trưởng thành có đủ khả năng đáp ứng được nhiệm vụ đưa đất nước ta tiến lên nền kinh tế công nghiệp hóa và hiện đại hóa ngang tầm khu vực và thế giới.