Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Chưa có thông tin , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 47
Số lượng câu trả lời 11
Điểm GP 3
Điểm SP 6

Người theo dõi (5)

Đang theo dõi (0)


Câu trả lời:

Mỗi năm học em đều được quen biết nhiều bạn bè, mỗi gương mặt như một đoá hoa trong khu vườn muôn sắc của cô giáo em. Trong đó có đóa hoa mà em yêu quý và nhớ mãi. Đó là Đang Anh.

Đang Anh là một cô bạn gái có gương mặt bầu bĩnh, mái tóc dài đen mượt ngang vai cột rè hai bên chiếc nơ hồng lấm tấm trắng, đôi mắt sáng hiền hoà và nụ cười hồn nhiên.

Lần đầu em gặp bạn ấy là ngày khai trường năm lớp 1, lúc em và các bạn đang lúng túng tìm lớp 1 thì đã thấy một cỏ bé cầm bảng tên lớp đứng ngay ngắn trong,bộ đồng phục chỉnh tề luôn miệng lên tiếng “Các bạn ơi, lớp Một ba của mình đây nè!”. Từ lúc ấy em và bạn ấy rất có cảm tình với người bạn đầy tự tin, nhanh nhẹn và già dặn ấy. Có bạn còn gọi Đang Anh là “chị Hai” nửa. Năm năm trời trôi qua, Đang Anh luôn được bạn bè tín nhiệm bầu làm lớp trưởng. Càng ngày bạn ấy càng biểu lộ nhiều tính tốt như lễ phép, chăm chỉ, thông minh, đoàn kết, gương mẫu, dù phái làm công tác lớp nhưng bạn luôn đạt điểm tốt ở các môn. Vì thế mỗi lần cô giáo vắng mặt, Đang Anh nhắc nhở trật tự làm cho ai cũng nể nang nghe lời bạn ấy.

Một dạo nào năm lớp 4, cô giáo em bị bệnh nặng phải nghỉ dạy, Đang Anh đã tự giác kêu gọi các bạn góp tiền mua trái cây và kéo cả năm mươi sáu học sinh cùng đến thăm cô. Thấy chúng em đến đông đủ cô cảm động, đù mệt nhưng cô cũng cố gắng ngồi dậy, cô nói : ‘‘Không ngờ các em đến đông đủ cả, cô vui lắm. Thấy các em thương cô thế này cô cũng thấy khoẻ ra”.  

Một lúc sau cô còn cố gắng giảng bài cho chúng em khỏi mất bài học. Khi cô ghi bảng thì bạn Đang Anh lau bảng cho cô. Có lúc cô không ghi bảng được thì Đang Anh chép hộ có lên bảng. Nhờ bạn ấy mà sau hai tuần lễ cô đau, chúng em vẫn theo kịp bài học với các lớp khác.

Một hôm em đi học sớm, ghé ngang nhà bạn để hỏi bài. Bước vào góc học tập của bạn ây, em đứng say mè nhìn, thích thú không muốn dời chân. Bàn học của bạn ấy rất đầy đủ đồ dùng học tập : bút ồic xanh, bút Bic đỏ, bút chì các loại, thước kẻ, eke. coinpa. chồng sách vở xếp thật ngay ngắn gọn gàng. Bên cạnh thời khoá biểu được tô những màu sắc vui tươi là những cảnh bướm sặc sở. những bông hoá và những bức hình sinh vật học do bạn ấy tự sưu tầm. Bạn ấy xếp thành từng họ, từng nhóm: như bộ bướm, bộ chuồn chuồn, bộ bò sát,..,

Em trầm trồ: “Ồ những con bướm này đẹp quá, lại hiếm nữa. Bạn bắt ở đâu thế?” Đang Anh múm mím cười, đáp: “Mình bắt một phần lớn trong những ngày về nghỉ ở miền quê. Còn lại là người quen tặng cho mình vì biết mình rất thích”. Nói rồi, bạn lấy chiếc kính lúp ra đưa em và báo: “Bạn xem này, chiếc kính này cho mình thấy rõ cấu tạo cơ thể của chúng”. Em kêu lên : “Ồ ! Hay quá !”

Đang Anh lại cho em xem những con vật bạn ấy đã sưu tầm được ngâm trong các lọ phoọc môn như rắn lục, bò cạp, rèt… Em rùng mình hỏi: “Bạn không sợ à ?” Đang Anh nói : “Ban đầu cùng sợ nó cắn. Nhưng chúng chét rồi nên không sợ nừa. Mình ao ườc sau này sẽ nghiên cứu nhiều hơn về thẻ giới loài vật". Hỏi bài bạn xong em về và rất tự hào về người bạn tốt có tinh thần say mê khoa học ấy.

Ở trong lớp, ngoài việc học tập và làm công tác lớp trưởng, bạn ấy luôn luôn thân ái đoàn kết, cởi mở và giúp đỡ bạn bè. Bạn cũng là gương tốt về lễ phép với thầy cô và phụ giúp cho mẹ trong việc nhà. 

Thật trời chẳng phụ lòng người tốt ! Đang Anh của em luôn đạt danh hiệu học sinh xuất sắc trong nhiều năm liền. Bạn ấy là tấm gương tốt cho chúng em noi theo. Truyện cố tích ngày xưa có một tấm gương thần soi vào là biết ai tốt, ai xấu. Bạn Đang Anh chính là tấm gương thần ấy.   

Câu trả lời:

Mác-xim Go-rơ-ki (1868 – 1936) là nhà văn hiệu thực xuất sắc của nước Nga cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Tên thật của ông là A-lếc-xây Pê-scôp, gọi thân mật là A-li-ô-sa. Ông sinh trưởng ở thành phố Ni-giơ- ni Nô-vơ-gô-rôt (sau có thời đổi tên là thành phố Go-rơ-ki), trong một gia đình lao động nghèo, bố làm nghề thợ mộc. Chú bé A-li-ô-sa trải qua tuổi ấu thơ nhiều cay đắng, tủi nhục, phải tự lực kiếm sống bằng nhiều nghề khác nhau khi mới mười một tuổi.

Nhà văn sáng tác rất nhiều, gồm các thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch… Các tác phẩm chính: tiểu thuyết Người mẹ (1906-1907), bộ ba tiểu thuyết tự thuật Thời thơ ấu (1913-1914), Kiếm sống (1915-1916) Những trường đại học của tôi (1923)…

Thời thơ ấu là cuốn đầu tiên trong bộ ba tiểu thuyết tự thuật. Truyện được kể ở ngôi thứ nhất (tôi). Tác giả tự kể chuyện đời mình. Mở đầu tác phẩm là chuyện bố mất, khi A-li-ô-sa mới ba tuổi. Chú bé về ở với ông bà ngoại vì mẹ đi lấy chồng khác. A-li-ô-sa sống những năm tháng tuổi thơ héo hắt, sớm phải chứng kiến trong gia đình những cảnh dời nhức nhối. Ông ngoại Va-xi-li Ca-si-rin là người khó tính, tàn nhẫn, hay đe doạ và đối xử với cháu bằng roi vọt. Hai người cậu thì luôn chửi bới và đánh nhau vì tranh chấp gia tài. Lão đại tá góa vợ ốp-xi-an-ni-cop hàng xóm thì hách dịch, coi khinh những người thuộc tầng lớp dưới… Nhưng A-li-ô-sa cũng gặp những người tốt bụng. Chú được sống trong sự che chở và tình thương yêu của bà ngoại A-cu-li-na I-va-nôp-na. Bà thường kể chuyện cổ tích cho cháu nghe, khơi dậy trong tâm hồn trẻ thơ những tình cảm tốt đẹp. Bác thợ Xư-ga-nôc có lần đỡ đòn cho A-li-ô-sa nên cả cánh tay bị bầm tím. Những đứa trẻ vừa tội nghiệp vừa đáng yêu con của đại tá Ôp-xi-an-ni-côp rất mến A-li-ô-sa… Tác phẩm kết thúc bằng sự kiện mẹ cậu bé qua đời, lúc cậu mới lên mười.

Bài văn này trích ở chương IX của tác phẩm Thời thơ ấu. Nhà văn thuật lại tình bạn thân thiết nảy sinh giữa cậu bé A-li-ô-sa với mấy đứa trẻ hàng xóm mồ côi mẹ, sống thiếu tình thương, bất chấp những cản trở trong quan hệ giai cấp và tầng lớp xã hội lúc bấy giờ.

Ông bà ngoại của A-li-ô-sa là hàng xóm với đại tá Ôp-xi-an-ni-cốp. Hai nhà thuộc hai thành phần xã hội khác nhau. Một bên là dân thường, một bên là quan chức giàu sang. Vì thế, viên đại tá không cho mấy đứa con của mình chơi với A-li-ô-sa. Do A-li-ô-sa góp sức cứu đứa con nhỏ của ông ta bị rơi xuống giếng nên ba đứa trẻ yêu thích A-li-ô-sa và rủ cậu sang vườn chơi.

A-li-ô-sa đã mất bố, mẹ lại đi lấy chồng khác. Cậu thường bị ông ngoại đánh đòn. Chỉ có bà ngoại là người hiền hậu, hết lòng vêu thương, che chở cho cậu. Qua trò chuyện, A-li-ô-sa biết mấy đứa bạn mới quen kia tuy sống trong cảnh giàu sang nhưng cũng chẳng sung sướng gì. Mẹ chết, chúng phải sống với dì ghẻ và cũng thường xuyên bị cấm đoán, bị đánh đòn…

Do hoàn cảnh giống nhau là đều thiếu tình thương nên A-li-ô-sa nhanh chóng kết thân với mấy đứa trẻ kia. Tình bạn trong sáng để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng A-li-ô-sa, khiến mấy chục năm sau, khi đã trở thành nhà văn M.Gor-ki, ông vẫn còn nhớ như in và kể lại hết sức xúc động.

Trước khi làm quen, mỗi lần nhìn sang hàng xóm, A-li-ô-sa chỉ thấy: Ba đứa cùng mặc áo cánh và quần dài màu xám, cùng đội mũ như nhau.

Chúng có khuôn mặt tròn, mắt xám và giống nhau đến nỗi tôi chỉ có thể phân biệt được chúng theo tầm vóc.

Tuy bị ngăn cấm vì không cùng đẳng cấp nhưng bọn trẻ vẫn lén gặp nhau để chuyện trò tâm sự. Chúng giống nhau ở chỗ đứa nào cũng bị đối xử hà khắc và không có niềm Vui tuổi thơ.

Khi mấy đứa trẻ kể cho A-li-ô-sa biết mẹ chúng đã chết, chúng phải sống với dì ghẻ, cậu bé thấy cả ba đứa có vẻ nghĩ ngợi, gương mặt sầm lại… Chúng ngồi sát vào nhau, giống như những chú gà con. Sự so sánh chính xác khiến ta liên tưởng đến cảnh lũ gà con sợ hãi co cụm vào nhau khi nhìn thấy bóng diều hâu.

Mấy đứa trẻ hàng xóm vừa nhắc đến chuyện dì ghẻ mà chúng gọi là mẹ khác, A-li-ô-sa liên tưởng ngay đến nhân vật mụ dì ghẻ độc ác trong các chuyện cổ tích. Cậu chỉ biết an ủi các bạn: Mẹ thật của các cậu thế nào cũng sẽ về, rồi các cậu xem! Thằng lớn có vẻ nghi ngờ: Chết rồi cơ mà, về làm sao được… A-li-ô-sa như chìm trong thế giới cổ tích. Cậu nói với các bạn như nói với chính mình: Không được ư? Trời ơi, biết bao nhiêu lần những người chết, thậm chí đã bị xả ra từng mảnh, mà chỉ cần vẩy cho ít nước phép là sống lại; có biết bao nhiêu người chết mà không phải là chết thật, vì phép của bọn phù thủy.

Khi đại tá Ôp-xi-an-ni-cốp bất chợt xuất hiện và vặn hỏi mấy đứa con rằng: Đứa nào gọi nó sang? A-li-ô-sa thấy cả mấy đứa trẻ lặng lẽ bước ra khỏi chiếc xe và đi vào nhà. Cảnh ấy khiến cậu bé nghĩ đến những con ngỗng ngoan ngoãn hình ảnh so sánh vừa miêu tả chính xác dáng dấp bên ngoài tội nghiệp của ba đứa trẻ và phần nào thế hiện thế giới nội tâm của chúng. Chúng bị cha áp chế, sợ hãi lẳng lặng theo nhau vào nhà, chẳng dám hé răng. A-li-ô-sa thông cảm với cuộc sống hoàn toàn thiếu tình thương của các bạn nhỏ.

Chú bé cảm thấy mình may mắn hơn chúng vì còn có người bà nhân hậu. Bà thường kể chuyện cổ tích cho chú nghe và chú kể lại cho các bạn, chỗ nào quên thì chạy về hỏi bà. Khi đứa con lớn của viên đại tá trầm ngâm bảo: Có lẽ tất cả các bà đều rất tốt, bà tớ ngày trước cũng rất tốt… thì A-li-ô-sa nhận xét: Nó thường nói một cách buồn bã: ngày trước, trước kia, đã có thời… dường như nó đã sống trên trái đất này mội trăm năm, chứ không phải mười một năm.

Không chỉ lời nói mà còn hình dáng, ánh mắt của mấy người bạn nhỏ đọng lại trong trái tim, khiến cho nhà văn sau bao nhiêu năm cũng chẳng thể nào quên:

Tồi còn nhớ nó có đôi bàn tay nhỏ nhắn, những ngón tay thon thon và người mảnh dẻ, yếu ớt, cặp mắt rất sáng, nhưng dịu dàng như ánh sáng của những ngọn đến trong nhà thờ. Hai em nó cũng rất dễ thương, tôi tin yêu lắm, tôi luôn muốn làm cho chúng vui thích, nhưng tôi ưa thằng lởn hơn cả…

Qua đoạn trích, chúng ta thấy A-li-ô-sa tuy còn nhỏ nhưng đã biết thương người, biết an ủi, san sẻ nỗi bất hạnh của các bạn gần như cùng cảnh ngộ. Rõ ràng, sự phân biệt giai cấp, giàu nghèo trong xã hội không thể nào ngăn cản được tình bạn trong sáng của tuổi thơ. Tình bạn ấy là của cải tinh thần vô giá trong cuộc sống tinh thần của mỗi con người.