Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu (Nguyễn Ái Quốc)

Nội dung lý thuyết

I. Tìm hiểu chung

1. Hoàn cảnh ra đời và xuất xứ văn bản

- Truyện ngắn lấy cảm hứng từ việc kết nối hai sự kiện diễn ra trong cùng một khoảng thời gian: Va-ren (đảng viên Đảng Xã hội Pháp) chuẩn bị sang Đông Dương nhậm chức Toàn quyền và nhà cách mạng Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt, toan tử hình (sau rút xuống án khổ sai chung thân).

- Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu được tác giả viết bằng tiếng Pháp, đăng trên báo Người cùng khổ (Le Paria) số 36 – 37, tháng 9, 10/1925 với bút danh Nguyễn Ái Quốc.

2. Mục đích sáng tác

- Vừa đả kích sự phản bội của Va-ren đối với lí tưởng đấu tranh của Đảng Xã hội Pháp vừa ca ngợi một người con anh hùng của dân tộc Việt Nam.

- Viết Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu cũng là một cách Nguyễn Ái Quốc góp tiếng nói từ nước Pháp ủng hộ phong trào đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu đang dâng cao tại Việt Nam.

3. Bố cục văn bản

- Phương án 1 (bám vào nội dung sự việc cụ thể được thuật kể tuần tự qua từng đoạn văn bản):

+ Phần 1 (Từ đầu đến "giam trong tù."): Mở đầu.

+ Phần 2 (Từ "Đến Sài Gòn"đến "vẫn nằm tù."): Trò lố 1 (Va-ren tuần du Sài Gòn).

+ Phần 3 (Từ "Từ Sài Gòn" đến "vẫn nằm tù."): Trò lố 2 (Triều đình Huế nghênh tiếp Va-ren).

+ Phần 4 (Từ "Nhưng chúng ta" đến "hiểu Phan Bội Châu"): Trò lố 3 (Va-ren vào nhà lao thuyết phục Phan Bội Châu hợp tác).

+ Phần 5 (Từ "Cuộc gặp gỡ"đến hết): Kết thúc.

II. Khám phá văn bản

1. Cảm hứng trào lộng trong tác phẩm

a. Cảm hứng trào lộng

- Trào lộng: là tiếng cười có tính chất chế giễu, đùa cợt (giống với trào phúng).

- Cảm hứng trào lộng trong tác phẩm văn học:

+ Cảm hứng trào lộng gắn với sự thôi thúc bên trong của người việt muốn bóc trần thực chất của sự vật, sự việc trên một phương diện nào đó bằng tiếng cười gồm nhiều sắc thái.

+ Cảm hứng trào lộng cho thấy vị thế đứng cao hơn đối tượng của chủ thể tiếng cười.

+ Cảm hứng trào lộng được thể hiện khác nhau tuỳ theo phong cách nghệ thuật của từng nhà văn và tuỳ theo thể loại được chọn sử dụng.

b. Biểu hiện của cảm hứng trào lộng trong “những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu”:

- Nhan đề: “những trò lố” chỉ sự việc không phù hợp với lẽ thường, đáng chế nhạo. Tác giả muốn hạ bệ, chế nhạo một sự kiện chính trị thành "những trò lố" nực cười.

- Tình huống: tưởng tượng về cuộc gặp gỡ giữa hai bên, hai lực lượng đối địch với nhau: một chí sĩ cách mạng yêu nước và một kẻ đi xâm lược đất nước.

- Xây dựng nhân vật: xây dựng chân dung hí hoạ về quan Toàn quyền Đông Dương.

- Ngôn ngữ, giọng điệu: châm biếm, mỉa mai, giễu nhại.

2. Sự tương phản giữa các nhân vật trong tác phẩm

a. Nhân vật Va-ren

- Địa vị: Toàn quyền Đông Dương

- Tiểu sử: Đảng viên Đảng Xã hội Pháp

- Hành vi:

+ Hứa "sẽ chăm sóc vụ Phan Bội Châu".

+ Tuần du Sài Gòn.

+ Dự yến, nhận tưởng lệ.

+ Vào xà lim "tay phải giơ ra bắt tay Phan Bội Châu, còn tay trái thì nâng cái gông to kệch đang siết chặt Phan Bội Châu".

- Lời nói:

+ Dài dòng"Tôi đem...Toàn quyền...!".

+ Lập luận ngụy biện xảo trá, trơ trẽn.

- Thái độ: Kẻ cả, ngạo nghễ: "tôi biết rõ", "ông nghe tôi","ông hãy nhìn tôi",...

b. Phan Bội Châu

- Địa vị: Tù nhân

- Tiểu sử: Chí sĩ yêu nước chống thực dân Pháp

- Hành vi: Nằm tù

- Lời nói: Im lặng

- Thái độ:

+ Dửng dưng

+ Khinh bỉ (nhếch mép, nhổ vào mặt)

=> Qua những chi tiết đối lập, tương phản, tác phẩm đã vạch trần bộ mặt lố bịch, giả dối của Va-ren và thực dân Pháp, đồng thời ca ngợi tinh thần yêu nước bất khuất của Phan Bội Châu.

3. Đặc sắc nghệ thuật truyện ngắn của Nguyễn Ái Quốc

a. Điểm nhìn trần thuật:

- Câu chuyện được kể từ nhiều điểm nhìn khác nhau: điểm nhìn của người kể chuyện, điểm nhìn của nhân vật (Va-ren, dân chúng, anh lính dõng, nhân chứng thứ hai).

+ Phần 1: Ngôi kể vô nhân xưng kết hợp với ngôi kể "chúng ta" thể hiện điểm nhìn của tác giả và những người cùng chí hướng đang hoạt động ở Pa-ri.

+ Phần 2: Câu chuyện được tiếp nối với nhiều điểm nhìn: điểm nhìn của Va-ren (lần đầu tiên được thấy một thành phố Đông Dương); điểm nhìn của người quan sát và kể chuyện ("Bỗng dưng tất cả dừng lại..."); điểm nhìn của đám đông dân chúng ("Gì thế nhỉ?..."); điểm nhìn của chú bé con, chị con gái, anh sinh viên, bác cu li xe, nhà Nho.

+ Phần 3: Ngôi thứ 3 (vô nhân xưng) - điểm nhìn của người kể chuyện.

+ Phần 4: Ngôi thứ nhất ("chúng ta") - điểm nhìn của tác giả.

+ Phần 5: Điểm nhìn của người kể chuyện; điểm nhìn của anh lính dõng; điểm nhìn của "nhân chứng thứ hai".

- Việc tạo ra sự đa dạng về điểm nhìn làm cho câu chuyện được kể một cách tự nhiên, sinh động, gợi ra nhiều tầng nghĩa, giúp người đọc hiểu rõ hơn về bản chất của thực dân Pháp và tinh thần yêu nước của Phan Bội Châu.

b. Ngôn ngữ, giọng điệu

- Nhại: "sẽ chăm sóc vụ Phan Bội Châu".

- Ngôn ngữ miêu tả mang sắc thái châm biếm: "hai con mắt của ông Va-ren được thấy hiển hiện cái huyền diệu của một thành phố Đông Dương"; "đôi bàn chân trần giẫm lạch bạch trên mặt đường nóng bỏng"; "những quả dưa hấu bổ phanh đỏ lòm lòm"; "những xâu lạp xưởng lủng lẳng dưới mái hiên".

- Nói mỉa: "ông Va-ren đã nửa chính thức hứa".

- Trùng điệp: "vẫn bị giam trong tù","vẫn nằm tù",...

- Nghịch ngữ: "Ông hứa thế; giả thử cứ cho rằng một vị Toàn quyền Đông Dương mà lại biết giữ lời hứa đi chăng nữa, thì chúng ta vẫn được phép tự hỏi".

- Chơi chữ: "Những vị ấy, ngày nay lừng danh cả, đều đã lần lượt đốt cháy những cái mà mình đã tôn thờ và đang tôn thờ những cái mà mình đã đốt cháy",...

=> Lời văn châm biếm đã góp phần làm nên màu sắc trào lộng độc đáo của tác phẩm

c. Phần kết thúc của truyện

Phần kết thúc của câu chuyện đáng chú ý về nhiều phương diện:

- Kết lạ: Hiển thị trên văn bản thành một đoạn riêng biệt rồi lại được nối dài thêm bằng đoạn "T.B. - Một nhân chứng thứ hai...".T.B. = tái bút/ viết thêm, tưởng như không quan trọng, thường chỉ thấy trong thư từ trao đổi cá nhân.

- Kết mở: Gia tăng nhân vật trần thuật và điểm nhìn (anh lính dõng và nhân chứng thứ hai). Với cách làm này, người viết có thể tiếp tục tăng thêm nhân vật trần thuật (nhân chứng thứ ba, thứ tư,...) để mở thêm những điểm nhìn và những tình huống khác giúp cho việc diễn tả chủ đề sâu sắc và thú vị hơn. Phần kết thúc có thể mở rộng như vậy là vì ở phần trên, tác giả đã lưu ý về "đôi cánh của trí tưởng tượng", chuẩn bị tâm thế cho việc trình bày những chi tiết hư cấu, bất ngờ.

- Kết bất ngờ: Những chi tiết ở phần kết đã tiếp nối với đoạn trên để diễn tả phản ứng của Phan Bội Châu đối với Va-ren thành một chuỗi tăng tiến (im lặng, dửng dưng - nhếch mép, cười ruồi - nhổ vào mặt) mà đỉnh điểm là một hành động thể hiện sự khinh bỉ, căm phẫn cao độ. Hành động này cho thấy khí phách phi phàm của Phan Bội Châu trước Toàn quyền Đông Dương, diễn tả sinh động xung đột quyết liệt giữa những người yêu nước ở xứ thuộc địa và chính quyền thực dân.

=> Phần kết thúc của "Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu" là một kết thúc mở, ấn tượng và giàu ý nghĩa.

4. Tài năng viết truyện ngắn của Nguyễn Ái Quốc

- Viết truyện bằng ngoại ngữ

- Khả năng quan sát, miêu tả sinh động.

- Tư duy nghệ thuật hiện đại, khả năng châm biếm, trào phúng sắc sảo; xây dựng nhân vật thể hiện rõ tính cách, bản chất đối lập.

- Bút pháp biến hoá linh hoạt (sáng tạo tình huống truyện độc đáo, trần thuật từ nhiều điểm nhìn, tạo dựng tình tiết đặc sắc, khả năng sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, hiệu quả).

=> Truyện ngắn "Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu" đã thể hiện tài năng văn chương và tinh thần yêu nước nồng nàn của Nguyễn Ái Quốc.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Truyện ngắn “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” đã phơi bày bản chất xâm lược của thực dân Pháp; ca ngợi tinh thần yêu nước của Phan Bội Châu và góp phần cổ vũ phong trào yêu nước Việt Nam.

2. Nghệ thuật

- Giọng văn hóm hỉnh, sắc sảo và khả năng tưởng tượng, hư cấu độc đáo.

- Khắc họa nhân vật bằng lời bình, bằng ngôn ngữ độc thoại, bằng miêu tả, thái độ, hành động.

- Khắc họa nhân vật bằng nghệ thuật tương phản, đối lập.