Mộ (Chiều tối) + Nguyên tiêu (Rằm tháng giêng) (Hồ Chí Minh)

Nội dung lý thuyết

VĂN BẢN 1: MỘ (CHIỀU TỐI)

I. Tìm hiểu chung

1. Phong cách thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh. (xem lại bài tác gia Hồ Chí Minh).

2. Vị trí và hoàn cảnh sáng tác bài thơ “Mộ”

Trong nguyên văn chữ Hán tập Ngục trung nhật kí (được khẳng định là thủ bút của Hồ Chí Minh, hiện được lưu trữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia), bài thơ Mộ được đánh số thứ tự 30, nhưng nếu tính cả bài "đề từ"ở đầu tập thì đây là bài thứ 31. Tác phẩm được viết vào khoảng những tháng đầu trong thời gian Hồ Chí Minh bị chính quyền Tưởng Giới Thạch (Trung Quốc) cẩm , lúc phải chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo.

II. Khám phá văn bản

1. Đối chiếu dịch thơ và phiên âm (câu 5)

Trở lại bản dịch bài thơ 'Mộ' của Hồ Chí Minh | Báo Giáo dục và Thời đại  Online

-  Các cụm từ chim mỏi và chòm mây chưa lột tả được ý nghĩa của các từ ngữ đặc tả quyện, cô trong nguyên văn, vốn là các từ biểu đạt rất sâu sắc trạng thái tâm lý của con người.

+ “Cô vân” nghĩa đám mây cô đơn, lẻ loi nên bản dịch là “chòm mây” chưa chuyển tải được hết ý thơ và cũng chưa thể hiện được hết tâm trạng của nhà thơ.

-  “Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc”, nghĩa gốc là “Thiếu nữ xóm núi xay ngô”, bản dịch đã chuyển “sơn thôn” thành “cô em” và thêm chữ “tối” vào thành “Cô em xóm núi xay ngô tối” làm giảm tính hàm súc của câu thơ.

- Từ hồng trong bản dịch thường được hiểu là màu hồng - một tính từ chỉ màu sắc;trong khi từ hồng trong nguyên văn có nghĩa là đốt cháy, thắp lên, làm cho cháy rực lên,...

@9523317@

2. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên (hai câu thơ đầu)

Hình ảnh

- Một cánh chim mỏi mệt bay về tổ.

- Hình ảnh chòm mây cô lẻ chầm chậm trôi qua bầu trời rộng lớn

Từ ngữ

Từ ngữ đặc tả tâm trạng, gợi lên cái hồn của sự vật: dùng những từ vốn chỉ trạng thái thể chất, tinh thần của con người (quyện, cô,...) để miêu tả thiên nhiên.

Bút pháp

Bút pháp chấm phá, tạo hình: đối ứng và nối tiếp giữa cái hữu hình và cái vô hình, cái hữu hạn và cái vô hạn (cánh chim, chòm mây với thời gian và không gian,...).

Nhận xét khả năng khơi gợi, tâm trạng nhân vật trữ tình

Hình ảnh một cánh chim mỏi mệt bay về tổ, gợi thời gian chiều tối, gợi nhịp điệu của cuộc sống tự nhiên ngẩm đối lập với hình ảnh người tù bị giải đi trên con đường vô tận, không biết đâu là điểm dừng. Hình ảnh chòm mây cô lẻ chầm chậm trôi qua bầu trời rộng lớn lúc trời chiều gợi cảm giác xa vắng, bâng khuâng.

3. Mối liên hệ giữa hoàn cảnh sáng tác với tâm thế, tâm trạng, cảm xúc của nhân vật trữ tình (câu 2)

+ Trong cảm thức chung,"chiều tối"(mộ) là sự đồng hiện khó phân tách giữa ý niệm về khung cảnh không gian và thời gian cuối ngày. Theo "nhịp điệu" của sự sống, đó là thời khắc mà mọi sinh linh đều cần nghỉ ngơi; theo "chiều kích"của tầm mắt, là giới hạn dần khép lại - tĩnh tại - ngưng lặng của bóng đêm."Chim về tổ"-"người về nhà", đó là một logic thông thường, đúng quy luật.

+ Nhưng ở đây có một sự bất thường: nhân vật trữ tình/ nhà thơ - kẻ chịu gông xiềng/ người chiến sĩ đang phải đối diện với một hành trình không có điểm dừng, bị mất tự do. Trong hoàn cảnh ấy, con người dễ rơi vào tâm trạng bi quan, bế tắc, cô đơn. Nhưng hiện diện trong khung cảnh núi rừng chiều tối này lại là hình ảnh tự tại của một con người có tâm hồn rộng mở, phóng khoáng, mạnh mẽ,...

4. Bức tranh về cuộc sống con người (Hai câu thơ cuối) (câu 6)

Hình ảnh

Thiếu nữ, Lò lửa

Từ ngữ

Xay ngô, hồng

BPTT

Điệp vòng tròn

Nhận xét

Bức tranh về cuộc sống con người được gợi lên từ những hình ảnh hết sức cụ thể, chân thực, thân thương: thiếu nữ mải miết với công việc xay ngô, lò lửa cháy rực giữa đêm tối. Người tù trên đường bị áp giải, mệt mỏi, mất tự do nhưng không ta thán, bi luỵ; toàn bộ thế giới tinh thần dường như hướng hẳn về những cảnh tượng, hình ảnh cuộc sống xung quanh, với tình cảm ấm áp, gần gũi.

Tâm trạng, vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ

Trong cảnh ngộ bất thường, người tù cách mạng có tâm hồn thi nhân vẫn thung dung, tự tại; nhạy cảm nhận ra những gì vốn nhỏ bé, dễ khuất lấp trong hiện thực. Điều đó chứng tỏ nhà thơ - chiến sĩ Hồ Chí Minh là con người không chỉ có bản lĩnh mà còn có đời sống tâm hồn hết sức phong phú.

5. Sự vận động của thời gian, của hình tượng thơ, bút pháp (Câu 3, 4)

- Thời gian khách quan vận động từ chiều tối (qua hình ảnh chim về tổ) đến khi màn đêm buông xuống và kết thúc ở hình ảnh lò lửa; thời gian tâm trạng lại có chiều hướng khác: từ bóng tối vắng lặng (của xóm núi sơn cước) đến ánh sáng (lò lửa cháy rực) của hình ảnh cuộc sống con người rất gần gũi, thân thương,...

- Hình tượng thơ vận động từ không gian thiên nhiên (cánh chim, chòm mây ở hai câu thơ đầu) đến khung cảnh sinh hoạt của con người (thiếu nữ xay ngô, lò lửa cháy rực ở hai câu sau).

- Cách nhìn của tác giả đối với chiều hướng phát triển của sự vật: từ thiên nhiên đến con người, từ viễn cảnh đến cận cảnh, từ ngoại cảnh đến tâm cảnh. Thế giới tâm hồn của con người thể hiện rõ qua việc nhà thơ luôn hướng về ánh sáng, về cuộc sống, dẫu là trong những hoàn cảnh gian khổ nhất của thân nhân.

- Thủ pháp đối lập giữa cái (hình ảnh) hữu hạn và vô hạn (cánh chim đơn lẻ và khung cảnh trời chiều, chòm mây cô đơn và không gian rộng lớn); thủ pháp "điểm nhãn" thể hiện qua việc tô đậm hình ảnh thiếu nữ và lò than cháy rực trong khung cảnh đêm tối miền sơn cước;...

III. Tổng kết

1. Cách phân tích một bài thơ chữ Hán 

2. Dấu ấn phong cách cổ điển

+ Với bài thơ Mộ, dấu ấn phong cách cổ điển biểu hiện rõ nét qua: thể thơ tứ tuyệt Đường luật, ngôn ngữcô đọng, hàm súc; thi liệu, hình ảnh - không gian - thời gian ít nhiều có yếu tố ước lệ (không - thời gian trời chiều, hình ảnh chim bay về núi,...); bút pháp đối lập (cái hữu hạn và cái vô hạn, cái hữu hình và cái vô hình,...), đặc tả nội tâm (dùng từ ngữ chỉ tâm thế tồn tại của con người để miêu tả thế giới tự nhiên);..

VĂN BẢN 2: NGUYÊN TIÊU

(RẰM THÁNG GIÊNG) 

I. Tìm hiểu chung

1. Hoàn cảnh sáng tác

- Tác phẩm được sáng tác năm 1948, trong hoàn cảnh gian khổ, khó khăn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tại chiến khu Việt Bắc. Văn bản bài thơ được báo Cứu quốc in lẩn đẩu kèm theo bản dịch thơ của Xuân Thuỷ.

2. Văn tự

Nguyên văn chữ Hán không có dị bản, nhưng bản dịch thơ nói trên thì có chút ít khác biệt giữa lần xuất bản đầu tiên và những lần xuất bản sau, có thể do chính dịch giả hiệu chỉnh. Bản dịch được giới thiệu trong SGK là bản dịch có diện mạo được định hình sau này.

3. Nhan đề “Nguyên tiêu”

Nguyên tiêu, nghĩa là “đêm rằm tháng giêng”, đêm rằm mở đầu của mùa xuân, của một năm. Tác giả ở đây không chỉ nhạy cảm nắm bắt cảnh đẹp của đêm trăng rằm tháng giêng mà quan trọng hơn là nắm bắt cái thời điểm đẹp nhất của đêm trăng trong hành trình vận động của nó; để biểu thị cho sức sống của tâm hồn, của con người, của đất trời: tất cả đều tươi mới, đầy sức sống.

- Thể thơ: thất ngôn tứ tuyệt.

- Bố cục: hai câu đầu, hai câu kết.

II. Khám phá văn bản

1. Hai câu thơ đầu

Rằm tháng giêng - Hồ Chí Minh

- Thời gian: Đêm rằm tháng giêng, 1 đêm trăng vừa tròn, thời điểm khởi đầu cho 1 năm tràn đầy sức xuân.

- Không gian: rộng lớn, thơ mộng ngập tràn sắc xuân (sông xuân, nước xuân, bầu trời xuân).

- Hình ảnh “nguyệt chính viên” (trăng vừa tròn): gợi lên vẻ đẹp viên mãn, tràn đầy. Trăng vốn thi vị và quen thuộc với đời với thơ:

“Vầng trăng vằng vặc giữa trời” (Truyện Kiều – Nguyễn Du)

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó” (Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử)

“Trăng sáng rực, trăng cao, trăng rộng lớn” (Trăng tình – Xuân Diệu)

nhưng ánh trăng trong thơ Bác vẫn có vẻ đẹp riêng. Trăng vừa là hiện thân của thiên nhiên thơ mộng vừa là người bạn đồng hành trong những thời khắc “bàn việc quân” (Trăng vào cửa sổ đòi thơ/ Việc quân đang bận xin chờ hôm sau – “Tin thắng trận”; Giữa dòng bàn bạc việc quân). Trăng vừa là tri âm tri kỉ vừa là nơi người chiến sĩ – nghệ sĩ bộc lộ vẻ đẹp chất thép – chất tình trong tâm hồn. Qua trăng, nhờ trăng thi nhân bày tỏ tình yêu thiên nhiên, cuộc sống và lòng lạc quan, niềm tin về ngày mai tươi sáng. Trăng vừa tròn còn là tín hiệu chỉ thời khắc vào độ đẹp nhất của đêm rằm tháng giêng, cũng là của cả một năm.

@9524543@

- Câu 2: Bản gốc điệp lại ba lần từ “xuân” (Xuân giang xuân thuỷ tiếp xuân thiên) để nhấn mạnh về không khí xuân bao trùm (sông xuân, nước xuân, trời xuân). Từ “tiếp” nhấn mạnh sự nối tiếp của sắc xuân và sức xuân, nhưng bản dịch thơ lại chỉ còn hai chữ “xuân” và bỏ ý biểu thị sự vận động của từ “tiếp”.

- Bút pháp tạo hình miêu tả bức tranh mùa xuân thơ mộng được nhìn từ cận cảnh đến viễn cảnh, nhiều tầng bậc: sông xuân, nước xuân, trời xuân vừa thực vừa hư, vừa thơ mộng vừa gần gũi. Qua đó, tác giả bộc lộ tình yêu thiên nhiên thiết tha.

2. Hai câu thơ kết

- Từ ngữ:

Từ ngữ

Bản gốc

Bản dịch

“yên ba thâm xứ”

Nơi có khói sóng vắng lặng, heo hút

Từ “giữa dòng” mới gọi được địa điểm, chưa thể hiện được không khí vắng lặng này và làm giảm đi sắc thái của câu thơ trong nguyên văn.

“nguyệt mãn thuyền”

ánh trăng đầy ăm ắp, tràn xuống thuyền (nơi đang có người bàn việc quân)

“trăng ngân” lại chưa lột tả được ý nghĩa này.

 

-> Từ ngữ hàm súc, cô đọng đậm chất cổ điển.

- Hình ảnh con người: người chiến sĩ đang “bàn bạc việc quân” giữa thời điểm chiến tranh chống Pháp ác liệt nhưng tâm hồn vẫn giao hòa cùng thiên nhiên thơ mộng hữu tình.

Con người là trung tâm của bức tranh, tạo nên vẻ đẹp hiện đại quen thuộc trong thơ Người.

- Nhân vật trữ tình: người chiến sĩ – nghệ sĩ có tâm hồn lãng mạn, lạc quan, yêu thiên nhiên và bản lỉnh thép.

- Thủ pháp đối lập hư – thực: khói sóng hư áo – con thuyền trăng chở người bàn việc quân tạo nên một bức tranh vừa cổ điển vừa hiện đại. Qua đó, thể hiện sự giao hòa, gắn bó giữa con người và thiên nhiên.

III. Tổng kết

1. Nội dung

- Mạch vận động của cảm xúc (tứ thơ):

 

Nguyên tiêu

Cách triển khai mạch cảm xúc

Chủ động nắm bắt thiên nhiên.

Cách triển khai hình tượng

Từ thiên nhiên đến con người.

Tư tưởng, chủ đề

Tình cảm với thiên nhiên, tâm hồn nhạy cảm, lòng yêu nước sâu nặng và phong thái ung dung, lạc quan của Hồ Chí Minh.

- Chân dung tự họa của Hồ Chí Minh: người chiến sĩ – nghệ sĩ bản lỉnh thép nhưng vẫn “mênh mông bát ngát tình” (Hoàng Trung Thông).

2. Nghệ thuật

- Ngôn ngữ: hàm súc, cô đọng.

- Sử dụng tài tình bút pháp thi trung hữu họa, phép đối và khả năng thống nhất những hình ảnh đối lập trong hình ảnh, ngôn từ.