Hướng dẫn soạn bài Vợ nhặt

Nội dung lý thuyết

Các phiên bản khác
0
4 coin

VỢ NHẶT

I.CÂU HỎI LUYỆN TẬP

Câu 1: Tại sao chuyện anh Tràng có vợ (trong tác phẩm Vợ nhặt) lại gây ngạc nhiên cho mọi người? Nêu những nét đặc sắc về nghệ thuật trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân.

a)Chuyện anh Tràng có vợ gây ngạc nhiên cho mọi người vì:

-Lúc này nạn đói đang hoành hành, cả làng xóm ngập chìm trong tử khí, người đói kéo nhau đi, xanh xám như bóng ma, những thây người chết cong queo bên đường… Cuộc sống của mọi người chìm trong đói khổ, cơ cực, người ta chỉ nghĩ đến làm sao cho khỏi chết, không mấy ai nghĩ đến chuyện kết hôn, sinh con đẻ cái…

-Chính trong thời điểm này, Tràng lại có vợ. Việc có vợ của Tràng là một chuyện lạ với tất cả người dân xóm ngụ cư. Nhưng việc Tràng nhặt được vợ đã đem lại sự lạ lùng tươi mát cho cuộc sống tăm tối, chết chóc của xóm làng, đem lại niềm vui và ngờ vực cho mọi người. Thái độ ngạc nhiên và ngờ vực của người dân xóm ngụ cư cho thấy tâm hồn họ đã tê dại vì đói khát. Thái độ của Tràng cho thấy anh là một người liều lĩnh nhưng rất tốt bụng.

b)Nghệ thuật đặc sắc của truyện:

-Cách dựng truyện: Tình huống nhặt vợ tạo thành những bất ngờ đầy kịch tính. Tác giả đã thành công khi làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách.

-Giọng văn: mộc mạc, giản dị. Ngôn ngữ gần với khẩu ngữ nhưng có sự chắc lọc kĩ lưỡng. Do đó có sức gợi đáng kể: bước ngật ngưỡng, đường khẳng khiu, nhấp nhỉnh những ý nghĩ, vẻ mặt phởn phơ, dãy phố úp súp, dật dờ đi lại, đứng tây ngây, lọng khọng đi vào… Cách viết như vậy tạo nên một phong vị và sức lôi cuốn riêng. Ngôn ngữ đối thoại trong truyện có tác dụng gợi tả tâm lí: đối thoại ngắn – đó là ngôn ngữ làm quen, làm thân, thăm dò, vừa xa lạ vừa gần gũi.

-Nhân vật: Tác giả đã khắc họa được những hình tượng sinh động: Bà cụ Tứ, anh cu Tràng… tiêu biểu cho những người lao động cơ cực nhưng vẫn giữ được tấm lòng nhân hậu, trong sáng. Hạnh phúc của gia đình khốn khổ ấy: của người được nhặt về làm vợ, của người ngẫu nhiên có được vợ (dù là vợ nhặt) và của bà mẹ già có con lấy được vợ (dù cách lấy vợ chẳng bình thường chút nào), niềm hạnh phúc có được trong cảnh cơ cực ấy làm người đọc xúc động.

 

Câu 2: Nghệ thuật xây dựng nhân vật với tài miêu tả tâm lí sắc sảo của Kim Lân được thể hiện như thế nào qua truyện Vợ nhặt?

Nhà văn Kim Lân là người có biệt tài trong việc miêu tả tâm lí nhân vật. Nhân vật anh cu Tràng trong truyện là một minh chứng cho điều này. Với nhân vật Tràng, có lúc Kim Lân diễn tả tâm lí qua những hành động bên ngoài, có lúc tác giả tả trực tiếp những ý nghĩ âm thầm bên trong nội tâm nhân vật. Tiêu biểu trong truyện Vợ nhặt là đoạn mở đầu tác phẩm, khi Tràng đưa vợ về nhà vào một buổi chiều đói khát. Ở đây tác giả có dụng ý miêu tả cử chỉ và nét mặt của nhân vật để khắc sâu tâm lí ngỡ ngàng, phấn khởi của một anh chàng nghèo khổ, lại là dân ngụ cư, nay bỗng nhiên nhặt được vợ một cách dễ duyàng qua một lời bông đùa và bốn bát bánh đúc. Vợ chồng đi bên nhau, ngượng ngùng trước bao cặp mắt tò mò của dân ngụ cư, Tràng muốn nói một cái gì đó cho có vẻ thân mật, tình cảm, nhưng vụng về, lúng túng chẳng biết nói thế nào. Vì xấu hổ, ngượng ngùng, cuộc đối thoại giữa đôi tân hôn này rời rạc, nhát gừng, không ăn nhập vào nhau.

Xen vào những đoạn miêu tả tâm lí qua diễn biến bề ngoài, Kim Lân còn chú ý miêu tả trực tiếp diễn biến nội tâm của Tràng: Trong một lúc Tràng như quên hết những viễn cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày (…). Một cái gì mới mẻ, lạ lẫm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấy, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng.

 

Câu 3: Anh (chị) hãy nêu ý nghĩa tựa đề của truyện Vợ nhặt.

Trong một bài phỏng vấn (Báo Văn nghệ, số 19, ngày 8-5-1993), nhà văn Kim Lân đã hào hứng giải thích về tiêu đề truyện Vợ nhặt như sau: Nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945, người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết. Bóng tối của nó phủ xuống xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy, giá trị một con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ mấy bát bánh đúc ngoài chợ - đúng là nhặt được vợ như tôi nói trong truyện. Qua lời tâm sự của nhà văn Kim Lân, ta thấy tựa đề truyện có nhiều ý nghĩa:

-Trước hết, tựa đề này gây cho người đọc một sự chú ý đặc biệt. Người ta thường nói nhặt được vật này vật khác, chứ không mấy ai nói nhặt được vợ hay chồng.

-Tựa đề Vợ nhặt phần nào nói về hoàn cảnh, số phận của nhân vật chính. Một người nghèo khổ, xấu trai, lại là dân ngụ cư, giữa lúc thiên hạ đói khát lại lấy được vợ.

-Nếu không gặp hoàn cảnh đói kém thì Tràng không lấy được vợ. Đau xót ở đây là Tràng lấy vợ không theo phong tục truyền thống, có mối mai, tìm hiểu, chạm ngõ, làm lễ cưới mà chỉ là từ một câu đùa vu vơ với bốn bát bánh đúc, Tràng đã có được vợ.

-Về mặt nghệ thuật, tên truyện ghi nhận một tình huống éo le, độc đáo về thân phận con người bị rẻ rúng như rơm rác bên đường… Đây là một tựa đề độc đáo phù hợp với nội dung tác phẩm.

 

II.ĐỀ BÀI LÀM VĂN

Đề 1: Tóm tắt truyện Vợ nhặt. Từ đó phân tích giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.

a)Tóm tắt truyện:

Tràng trước khi lấy vợ là một nông dân nghèo làm nghề đẩy xe bò chở thóc thuê. Tràng vô tư, vui tính. Mỗi lần đi làm về, bọn trẻ trong xóm thích chạy theo xe của Tràng đùa nghịch. Một hôm, Tràng đẩy xe bò, thấy các cô gái đang ngồi không chờ người gọi việc làm thuê, Tràng hát đùa: Muốn ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì! Một cô gái đến. Mấy hôm sau, Tràng bị cô gái ấy mắng mỏ cho rằng Tràng nói dối. Tràng đã đãi cô bốn bát bánh đúc và đưa cô về nhà trong một buổi chiều không khí thê lương, ảm đạm vì đói. Bà mẹ của Tràng đón nhận người con dâu khốn khổ ấy trong nỗi ngạc nhiên, đau đớn và thương cảm. Sau đêm cả nhà gặp mặt, sáng ngày, cả ba mẹ con đều vui vẻ, lo toan, vun xới cho cuộc sống của gia đình. Tràng cảm thấy có bổn phận phải lo cho vợ con.

Tràng mong ước có một lối thoát, cả gia đình họ đang hướng về một cuộc sống đổi khác. Trong óc anh hiện ra đám người phá kho thóc và lá cờ đỏ phấp phới bay.

b)Phân tích giá trị nội dung:

Nội dung cốt truyện Vợ nhặt hết sức đơn giản. Tác phẩm được xây dựng theo diễn biến tâm lí của nhân vật. Đầu tiên, Kim Lân miêu tả cảnh Tràng – một chàng trai nghèo khổ, là dân ngụ cư – đưa vợ về nhà. Tiếp đến, nhà văn để cho Tràng nhớ lại việc nhặt được vợ. Và cuối cùng là tâm trạng của Tràng và bà cụ Tứ nhân việc gia đình có thêm một thành viên mới.

Cốt truyện tuy đơn giản, nhưng Vợ nhặt có nội dung tư tưởng sâu sắc, có giá trị nghệ thuật độc đáo.

Trước hết, qua truyện Vợ nhặt, Kim Lân đã phản ánh sinh động tình cảnh khốn khổ của nhân dân ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945, dưới chế độ thực dân phong kiến và tình cảm hướng về cách mạng của họ.

Tác phẩm bắt đầu bằng việc miêu tả sự đổi thay to lớn của xóm làng khi nạn đói tràn tới. Anh cu Tràng, một người vô tư, vui tính, được trẻ con yêu mến là thế, mà nay đi từng bước mệt mỏi (…) cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước. Cái đói cũng làm cho những đứa trẻ vốn hiếu động và tinh nghịch bỗng ngồi ủ rũ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích. Rộng hơn, cái đói khiến cho cả làng xóm xanh xám như bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Bao trùm lên cái xóm ngụ cư này là một không khí chết chóc: người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây chết nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Lại thêm mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết gió thoảng vào khét lẹt. Người ta nghe thấy tiếng ai khóc hờ, tỉ tê lúc nhỏ lúc to và tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết.

 Làng xóm bỗng trở nên xơ xác, tiêu điều, đêm về không nhà nào có ánh đèn, lửa. Hình như không ai tin là mình có thể sống qua nạn đói. Và người đói, qua biểu hiện của cô gái mà Tràng gặp ở cửa nhà kho trên tỉnh, cái đói đang làm mất dần nhân cách của cô: ăn nói chua ngoa, chỏng lỏn, liều lĩnh. Giữa lúc ấy thì Tràng nhận người đàn bà kia làm vợ và đưa cô về nhà. Người ta thường nói nạn đói làm con người đánh mất nhân cách, giá trị của bản thân (...) Nhưng đó là cái nhìn bề ngoài, không phải là cái nhìn của Kim Lân. Với tấm lòng rất mực nhân hậu, nhà văn nhìn thấy khát vọng được có vợ của anh Tràng. Anh cũng liều lĩnh, tặc lưỡi: Kệ, cứ đón cô ta về đã.

Tràng lấy vợ khiến bà cụ Tứ (mẹ Tràng) lo âu, tự hỏi liệu nó có nuôi nổi nhau qua được cơn đói khát này không. Nghĩ đến hoàn cảnh cùng quẫn của gia đình mình, cụ thấy tủi thân, tủi phận. Cụ ý thức rất rõ việc lấy vợ cho con đáng lẽ phải thế này, thế nọ; nhưng cái khó bó cái khôn nên chỉ còn cách nghĩ ngợi mà tủi thân phận. Rồi cụ thương con đẻ, thương cả con dâu mình. Cụ hiểu rõ nguyên cớ vì sao người ta phải theo con mình. Bà lão nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót, và rồi nói với vợ chồng Tràng: Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá, rồi nghẹn không nói được lời nào nữa và nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Việc con nhặt được vợ vừa là nỗi lo vừa là niềm vui của bà lão. Mừng vì đứa con thô lậu, quê mùa của mình đã có vợ. Còn lo vì cái đói, cái rét, cái chết đang rình rập. Dẫu sao thì bà vẫn mừng nhiều hơn. Niềm vui khiến cho cái mặt bủng beo của bà rạng hẳn lên… Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này? Cụ cố giấu cái lo để động viên con trai và con dâu: Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo ban nhau làm ăn. Rồi may ra ông trời cho khá… biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?

Như vậy, chứng tỏ tâm trạng (đặc biệt là niềm hi vọng) của bà cụ Tứ đã được diễn tả một cách phong phú, chân thật, góp phần tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm.

Sau một đêm thành vợ chồng tại ngôi nhà nát, sáng hôm sau, vẫn trong cơn đói khát, nhưng một không khí đầy sinh khí đã đến với mọi người. Ngôi nhà sạch sẽ, gọn gàng, ang nước đầy ăm ắp… , người vợ trở nên hiền hậu, đúng mực, còn Tràng thì bỗng nhiên hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Một niềm tin vào tương lai gieo vào lòng mọi người: Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có thể khấm khá hơn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế.

Như vậy, rõ ràng cho dù bị cái đói, cái rét rình rập, đe dọa, trong không khí ảm đạm thê lương, từ Tràng đến bà cụ Tứ, đến những người xóm ngụ cư này… Tất cả vẫn hướng tới tương lai, vẫn khao khát một cuộc sống gia đình. Điều này góp phần quan trọng cho truyện Vợ nhặt có được giá trị nội dung sâu sắc.

c)Phân tích giá trị nghệ thuật:

Bên cạnh giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của truyện Vợ nhặt cũng hết sức độc đáo. Câu chuyện đã làm sống dậy cả một quãng thời gian đau thương của dân tộc, xây dựng được các nhân vật tiêu biểu.

Trước hết, tác giả đã tái tạo được không khí truyện rất đạt, đó là không khí những ngày đói khủng khiếp, với những con người dật dờ, lặng lẽ như những bóng ma. Trong bối cảnh ấy, người vợ nhặt hay bà mẹ Tràng đều là các số phận điển hình. Tất cả được dẫn dắt sống động, rất chân thực với các chi tiết rất đắt (chi tiết mấy đĩa bánh đúc mà nên vợ nên chồng…) chỉ thông qua cách nói chuyện của vợ chồng Tràng, với những câu đối đáp không đầu không đuôi, lời ít đến mức tối thiểu càng cho thấy tài nghệ của nhà văn trong việc sử dụng ngôn ngữ nông thôn nhuần nhị tự nhiên biết nhường nào.

Ngoài ra, ở truyện ngắn này, Kim Lân đã chứng tỏ khả năng phát hiện và diễn tả tâm lí nhân vật khá sắc sảo. Nhân vật Tràng và bà cụ Tứ được xây dựng rất sinh động. Kim Lân đã phối hợp nhiều biện pháp nghệ thuật để khắc họa tâm lí hai nhân vật này. Lúc thì ông diễn tả tâm lí qua những biểu hiện bề ngoài (cử chỉ, lời nói, nét mặt… của nhân vật); lúc thì tác giả mô tả trực tiếp những ý nghĩ sâu kín trong nội tâm nhân vật: Hắn tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh…, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình. Nhà văn còn lột tả nội tâm nhân vật: Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tối tăm hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe dọa, quên cả những ngày tháng trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên cạnh. Một cái gì đó mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng.

Việc nhà văn phát hiện và miêu tả sắc sảo tâm lí khiến cho Tràng và bà cụ Tứ trở nên sống động, có sức hấp dẫn đối với độc giả.

Bên cạnh đó, không thể không nói đến giọng văn mộc mạc, giản dị; ngôn ngữ được chọn lọc kĩ lưỡng, nhiều khi rất gần gũi với khẩu ngữ và có giá trị tạo hình. Điều này khiến cho tác phẩm có sức gợi đáng kể.

Với nội dung tư tưởng sâu sắc, với nghệ thuật độc đáo, truyện ngắn Vợ nhặt không chỉ miêu tả được tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trước nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ. Chính vì vậy, truyện đã có sức sống mãnh liệt trong lòng độc giả.

 

 

Đề 3: Nhà văn Kim Lân đã nói về truyện ngắn Vợ nhặt: “Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống”. Hãy chứng tỏ điều đó qua các nhân vật của ông.

a)Mở bài:

Vợ nhặt là tác phẩm nổi bật của nhà văn Kim Lân và cũng là một trong những thành tựu xuất sắc của nền văn học cách mạng. Tác phẩm ra đời cách đây trên 40 năm, viết về một giai đoạn cách mạng đau thương trong lịch sử dân tộc: nạn đói năm 1945. Thế nhưng, tác phẩm không mang tính nhất thời và sẽ thành bất tử với thời gian bởi giá trị nhân văn cao cả, niềm tin không bao giờ tắt hướng về con người. Trong tác phẩm, niềm tin ấy thể hiện ở chỗ: “Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống.”

b)Thân bài:

+Giải thích:

Như nhiều tác phẩm trước đó viết về nạn đói, ngòi bút Kim Lân chứa chan thương cảm trước những số phận lương thiện và cùng khổ. Ông không dành nhiều trang viết mô tả hiện thực tàn khốc lúc bấy giờ - người chết đói như ngả rạ - mà chủ tâm thể hiện vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong cái bề ngoài xác xơ vì đói khát của những người nghèo khổ. Trên cái nền bức tranh của nạn đói, tác giả xây dựng hình ảnh những con người thật cảm động: Một anh chàng nghèo khổ tên Tràng, độc thân, chỉ mấy câu hò chơi cho đỡ nhọc, đã có được một cô vợ nhặt – một người đàn bà đang sống dở chết dở vì đói. Họ thành vợ, thành chồng giữa cải cảnh tối sầm lại vì đói khát. Đêm tân hôn của họ âm thầm trong bóng tối, giữa tiếng khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo gió đưa lại. Bữa cơm ngày cưới của đôi vợ chồng trẻ và người mẹ già chỉ có cháo loãng, muối hột, nhưng họ ăn uống rất ngon lành, trong hồi trống thúc thuế. Ba mẹ con vừa ăn cơm vừa bàn chuyện Việt Minh phá kho thóc Nhật chia cho dân nghèo. Trong óc Tràng, vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Họ nghĩ tới tương lai, nghĩ tới cuộc sống tốt đẹp mặc dù họ đang đứng bên bờ vực của cái chết do nạn đói. Đây chính là tư tưởng trung tâm mà nhà văn Kim Lân muốn gửi đến người đọc qua truyện Vợ nhặt

Ngay từ đầu câu chuyện đã hiện lên đượm màu sắc tang thương tử khí: Cái đói đã tràn đến xóm này từ lúc nào, những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm cong queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Thực không có gì ảm đạm hơn bức tranh quê ấy. Trong khi trước đó không lâu, mỗi buổi chiều Tràng đi làm về, cái xóm ngụ cư ấy lại xôn xao lên được một lúc. Còn bây giờ, cái đói đã đè nặng lên vai mỗi người. Ngay cả bọn trẻ - những đứa trẻ hồn nhiên, vô tư nhất, cũng mất đi sự tự nhiên, ngây thơ của mình, chúng ủ rũ, không buồn nhúc nhích.

+Nhân vật Tràng:

Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều, người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Tràng dẫn người đàn bà này về làm vợ, xây dựng gia đình, sinh con đẻ cái để tiếp nối sự sống. Giọng văn lúc này thật dồn nén và gây cảm xúc mạnh, mộc mạc mà lôi cuốn: Mặt hắn có vẻ phớn phở khác thường, hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Đọc đến đây ta không thể không nghĩ đến những trang bi kịch trong cuộc đời của Sêxpia, Môlie hay Stăng-đan. Tuy nhiên, bi kịch ở đây đã vượt lên sự thông thường vẫn có: nó cũng không phải là hiện thân của sự ngu dốt như Mác nói, mà là sự cao cả, đẹp đẽ, lạ thường. Đó là biểu hiện cao nhất của sự chiến thắng, vượt lên trên thực tại chết chóc, đen tối để hướng tới sự sống, niềm tin, ánh sáng. Với chi tiết Tràng cùng vợ đi về nhà, chủ nghĩa nhân đạo trong văn học nước nhà cũng có thêm tiếng nói mới, có thêm sức mạnh.

Chuyện lấy vợ của Tràng, trước hết, là một chuyện lạ mà thú vị. Điều ấy đã khiến dân xóm ngụ cư hết sức tò mò, từ bọn trẻ con cho đến tất cả người làng. Họ bàn tán… Họ hiểu đôi phần, khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Từ trong sâu thẳm tâm hồn những người dân làng, le lói lên một chút niềm vui. Họ thú vị nghĩ tới chuyện Tràng có vợ. Có thể nói, trong phút chốc, khi Tràng cùng cô vợ nhặt đi về làng, cái chết, sự ảm đạm thâm u nơi xóm ngụ cư được đẩy sang một bên. Xóm ngụ cư đang ở trên miệng vực cái chết, bỗng hé lên một thoáng sống.

Nhưng, niềm vui vừa đến đã phải nhường chỗ cho sự lo âu. Dân làng lo thay cho Tràng: Giời đất này còn rước cái của nợ đó về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không. Tuy nhiên, đó không phải là nỗi lo tuyệt vọng, mà là lo cho cái sống. Sự chết chóc cứ ám ảnh, đe dọa sự sống, nhưng sự sống vẫn vượt lên cái chết. Khuôn mặt rạng rỡ của dân làng, ánh mắt của họ thực sự có ý nghĩa, nói với chúng ta bao điều.

Ở bước đường cùng, người ta sinh ra liều lĩnh – điều đó thực đúng lắm thay! Hành động nhân đùa làm thật của cô gái theo chân Tràng về nhà, xét đến cùng, là một hành động liều lĩnh. Tràng gặp người đàn bà ấy tất cả chỉ có hai lần vào các dịp chở thóc lên tỉnh. Với Tràng, chị ta chẳng để lại trong anh một ấn tượng gì. Bởi thế, lần thứ hai gặp lại, Tràng phải mất một thời gian mới nhận ra. Và cũng như nhiều nhân vật khác trong sáng tác của Nam Cao, cái dạ dày của chị ta đã chiến thắng khối óc và con tim: được Tràng đãi, chị ta ăn liền một chập bốn bát bánh đúc. Cái đói đã đẩy lùi ý thức nhân cách, sĩ diện. Quên cả thẹn thùng, người đàn bà không tên ấy cắm đầu ăn không chuyện trò gì. Khi Tràng ngỏ lời, không cần suy nghĩ, chị cùng đi theo một cách dễ dàng vô tư lự. Thế mới hay, cái đói ghê gớm biết chừng nào, và hai cái liều gặp nhau đã tạo nên một gia đình thời tao loạn. Điều đáng chú ý là ở đây, khi cùng người vợ nhặt về nhà, Tràng đã bỏ ra hai hào để mua một chai dầu. Có nghĩa là anh đã thắp lên một ngọn lửa trong cuộc sống tối tăm của mình, đem lại chút ánh sáng cho gia đình cũng như dân làng. Điều này chi phối toàn bộ tác phẩm. Cũng từ cuộc hôn nhân của Tràng, những người đời mới thực sự không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống.

Khi Tràng cùng vợ về nhà, cuộc sống trước mắt họ không kém phần thảm hại. Căn nhà vắng teo, rúm ró, niêu bát, áo xống bừa bộn… Ôi, lấy vợ cưới chồng, yên bề gia thất! Việc lớn một đời, hạnh phúc trăm năm! Vậy mà, họ bị bủa vây bởi sự nghèo đói chết chóc. Nhưng, sự sống là bất diệt, chẳng bao giờ chán nản. Trong cái chết, sự sống vẫn tồn tại, tìm chỗ sinh sôi nảy nở. Tất cả thật dữ dội, mà ý nghĩa thì lớn lao: sự sống luôn tồn tại, bất chấp cái chết.

Việc hai người xa lạ bỗng gắn bó với nhau trong cơn đói kém, chứng tỏ quyết tâm nghĩ đến cái sống của hai người, đem lại cho họ - trước hết là Tràng – một niềm vui lớn lao. Trong truyện ngắn, hơn 20 lần nhà văn nhắc đến niềm vui và nụ cười thường trực của Tràng khi đã có vợ. Tình yêu của hai người có sức cải biến thật lớn.

Trong một lúc, Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả đói khát đang đe dọa… Trong lòng hắn, lúc này chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông ấy... Đúng vậy, niềm vui lớn nhất đời anh là đã thực sự có vợ. Cái mới mẻ, lạ lẫm ấy là tinh thần trách nhiệm của một chủ gia đình sẽ phải lèo lái con thuyền nhà – gia đình – qua thời điểm khó khăn, vươn lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt để xây dựng cuộc sống. Tràng bỏ sau lưng tất cả những tiếng hờ khóc, tiếng quạ kêu…

Chỉ sau một đêm nên vợ nên chồng, Tràng thấy mình có sự đổi khác: Trong người êm ái lửng lơ như người ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay vẫn còn ngỡ như không phải… Chuyện được vợ của Tràng ngỡ như đùa nhưng lại là sự thật. Bao nhiêu sự sống, sinh khí trở lại với Tràng, với gia đình, sau khi anh có vợ. Và cũng từ buổi sáng hôm sau đó, dường như tất cả sự thực chết chóc không còn tồn tại nữa. Tràng chỉ nghĩ đến sự gây dựng cuộc sống, hướng về sự sống mà tạo lập hạnh phúc. Tràng thấy thương yêu, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đây. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa, che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo cho vợ con sau này.

Có thể nói, đó là biểu hiện cao nhất của tinh thần hướng về sự sống, quên đi cái chết đang bủa vây.

+Nhân vật người vợ nhặt:

Vợ Tràng là một nhân vật khá độc đáo. Chị không có tên, không tuổi, không đặc điểm nhận dạng và quê quán. Tưởng rằng, khi chị theo Tràng về nhà, với sự chao chát, chỏng lỏn, văn học Việt Nam lại có thêm một nhân vật không bình thường. Nhưng không, ngòi bút của Kim Lân chưa bao giờ để nhân vật của mình tha hóa, biến chất đến độ ấy. Khi về nhà Tràng, con người thật của chị mới hiện lên đầy đủ. Chị cứ ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng. Vì sao vậy? Cái thế ngồi rụt rè, chông chênh ấy cũng là cái thế của lòng chị trăm mối ngổn ngang. Liệu chỗ ấy có phải là chỗ của chị không? Nhà này có phải là chốn để chị dung thân?

Và cũng như Tràng, sau một đêm làm vợ, chị đã thay đổi hẳn: Trông chị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực… Cái đói một khi đã được xua đi, thì sự tốt đẹp, đúng đắn như bản chất hiền lành trở lại với chị. Ấy cũng là lúc chị nghĩ đến sự sống, lo cho gia đình mình. Chị quét dọn sân nhà sạch sẽ, gánh nước đổ đầy ang… Có bàn tay săn sóc của chị, căn nhà trở nên gọn gàng, sáng sủa. Sự sống trở về với người, với cảnh.

+Nhân vật bà cụ Tứ:

Bà cụ Tứ để lại cho người đọc những thiện cảm tốt đẹp. Thấy con lấy vợ trong hoàn cảnh khó khăn, bà không khỏi bùi ngùi, thương xót : Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái, mở mày mở mặt sau này. Còn mình thì… Nhưng, bà thực sự vui mừng khi con trai bà đã yên bề gia thất: Bà lão nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường. Cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên… Rồi trong bữa cơm, cả ba mẹ con đều quên đi hiện thực đau lòng để hướng tới một tương lai tươi đẹp hơn: Tràng ạ, khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này, ngoảnh đi ngoảnh lại, chả mấy mà có đàn gà cho mà xem…

Nghĩ đến cái sống, không nghĩ đến cái chết là ở chỗ đấy. Bà cố gắng xua đi thực tại hãi hùng, để nhen nhóm niềm tin vào cuộc sống cho các con. Tuy nhiên, món chè cám đã nhắc họ về với thực tại. Chao ôi, chè cám! Phải đói đến một mức nào đó, người ta ăn cám mới thấy ngon! Cuộc sống khắc nghiệt, đày đọa, bắt họ phải sống cuộc sống loài vật. Nhưng nào dập tắt được phần Người đáng quý trong mỗi con người. Cái phần Người ấy, sẽ giúp họ vượt qua giai đoạn khó khăn này.

+Đánh giá chung:

Sẽ là thiếu sót lớn nếu bỏ qua hình ảnh những người nông dân sống trên đê Sộp cùng nhau đi phá kho thóc, khi nói đến những kẻ hấp hối trong vòng tử địa vẫn hướng tới cuộc sống. Đó là hình ảnh không hề ngẫu nhiên chút nào, được nhà văn chuẩn bị từ trước. Nó là dấu hiệu của bước đường cùng, không còn cách giành sự sống nào khác, phải vùng dậy đấu tranh, hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tràng thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu, bởi anh chưa bắt được mạch nguồn cách mạng. Trước mắt người đọc lúc này, sự sống trở thành mục đích chung của mọi người. Họ đấu tranh, đoạn tuyệt dứt khoát với cái chết. Và chắc chắn, mẹ con Tràng sẽ tiếp nói dòng người kia, giành lại sự sống cho mình.

c)Kết bài:

Vợ nhặt là thành công xuất sắc của nền văn học cách mạng. Với truyện ngắn này, Kim Lân bày tỏ thiện cảm sâu sắc với những người nghèo khổ nhưng giàu lòng nhân ái. Ông luôn khẳng định cái đói, chết chóc không thể giết chết niềm tin vào cuộc sống. Năm tháng qua đi, còn mãi với thời gian là chất nhân văn cao cả của một người nghệ sĩ nhân đạo.

(Võ Thanh)

 

Khách