Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh (Tình dạ tứ)

Nội dung lý thuyết

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả

- Lí Bạch (701-762), nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc đời Đường, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê ở Tam Cúc.

- Lúc mới năm tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên là quê hương của mình.

- Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu dân giúp đời song ông chưa bao giờ được toại nguyện.

- Lí Bạch được mệnh danh là “tiên thơ”.

- Đặc điểm thơ Lí Bạch:

+ Biểu hiện một tâm hồn tự do, hào phóng.

+ Hình ảnh thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ.

+ Ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện.

+ Ông thường viết rất hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn.

2. Tác phẩm

a. Xuất xứ

- Bài thơ được sáng tác khi ông ở xa quê của mình.

- Bài thơ do Tương Như dịch, in trong Thơ Đường, tập II.

2. Bố cục 

- Phần 1: (Hai câu đầu): Cảnh trăng sáng và tâm trạng của tác giả.

- Phần 2: (Hai câu còn lại): Nỗi nhớ quê hương của tác giả.

@402873@

II. Đọc - hiểu văn bản

1. Cảnh trăng sáng và tâm trạng của tác giả

- Cảnh đêm trăng:

+ Không gian: “sàng” - đầu giường, đây là một dụng ý nghệ thuật của tác giả, ánh trăng được cảm nhận rất gần so với vị trí của tác giả.

+ So sánh: ánh trăng - sương trên mặt đất, gợi nên hình ảnh một đêm trăng rất sáng, ánh trăng bồng bềnh như cõi tiên.

+ “Rọi”: ánh trăng tìm đến thi nhân như tri âm, tri kỉ giản dị mà đầy bất ngờ.

-> Khung cảnh rất thi vị, lãng mạn, đêm trăng huyền ảo, đẹp như ở chốn bồng lai.

- Tâm trạng của nhà thơ:

+ "Nghi” có nghĩa là ngỡ, tâm trạng ngạc nhiên, bất ngờ.

+ Cảm giác vừa say, vừa tỉnh, nửa thực nửa ảo.

+ Sự băn khoăn, trăn trở, chứa đầy ưu tư.

-> Hai câu thơ đầu vừa tả cảnh vừa tả tình. Đó là một đêm trăng đẹp huyền ảo với tâm trạng ngỡ ngàng, bâng khuâng của nhà thơ.

@402521@

2. Hai câu còn lại

- “Vọng”: gồm có hai nét nghĩa:

+ Nhìn từ xa.

+ Ngóng trông.

- Câu thơ thứ ba về cơ bản giống như một câu trong bài Thu ca của dân ca Nam Triều: Ngưỡng đầu khán minh nguyệt (Ngẩng đầu nhìn trăng sáng). "Cử" đồng nghĩa với "ngưỡng", song "vọng" thì mang sắc thái biểu cảm rõ nét hơn "khán" (thấy). Điều đáng chú ý hơn là trong thơ tứ tuyệt, câu thứ ba thường có vị trí đặc biệt quan trọng. Ở vị trí bản lề, nó vừa phải nối tiếp ý hai câu trên đồng thời tạo thể để hạ một câu kết thật đắt. Tài năng của Lí Bạch là đã sử dụng gần như nguyên vẹn một câu thơ dân gian vào đúng chỗ.

- Ngẩng đầu: xuất hiện như một hành động tất yếu của nhà thơ để kiểm nghiệm ánh trăng đó là thật hay ảo ở hai câu thơ trên.

-> Tác giả nhìn ra xa để ngắm vầng trăng với tư thế hướng ngoại.

- Cúi đầu: đây không phải là cái cúi đầu để ngắm nhìn ánh trăng hay nhìn sương, mà là cái cúi đầu của nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, nghĩ về quê xa.

-> Ngẩng đầu, cúi đầu, chỉ trong khoảnh khắc đã động mối tình quê, đủ thấy bình thường, tình cảm đó thường trực và sâu nặng biết bao.

- Nghệ thuật: đối cấu trúc ngữ pháp và đối từ loại.

- Tâm trạng nhớ cố hương da diết của tác giả được thể hiện qua cử chỉ, hành động, cảm xúc. Xúc cảm ấy được dồn nén và thể hiện rõ nét trong câu thơ cuối cùng:

Đê đầu tư cố hương

(Cúi đầu nhớ cố hương).

@402714@@402799@

III. Tổng kết

1. Nghệ thuật

- Thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt.

- Từ ngữ giản dị mà tinh luyện.

- Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa miêu tả và biểu cảm.

2. Nội dung

Bài thơ thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía tình quê hương của một người sống xa nhà, xa quê hương trong cảnh đêm trăng thanh tĩnh.

@402593@@402644@