Nội dung lý thuyết
Nông nghiệp là một ngành sử dụng đất đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và nguyên liệu lao động nhằm sản xuất vật chất cơ bản cho xã hội như lương thực, thực phẩm và một số nguyên liệu cho công nghiệp. Nông nghiệp bao gồm các ngành như chăn nuôi, trồng trọt, sơ chế nông sản, lâm nghiệp và thuỷ sản.
Bằng kinh nghiệm, thông qua quá trình lao động, con người đã cải tạo hệ sinh thái tự nhiên, tạo nên các hệ sinh thái nông nghiệp nhằm đáp ứng các mục đích của mình. Tuỳ thuộc vào hình thái của quá trình sản xuất, hệ sinh thái nông nghiệp được chia thành hai loại cơ bản:
– Hệ sinh thái nông nghiệp truyền thống: là hệ sinh thái mang nhiều đặc điểm tương đồng với hệ sinh thái tự nhiên; ít có sự đầu tư cơ giới (đầu vào thô sơ), đầu ra chủ yếu phục vụ cho cá nhân hay gia đình của người sản xuất.
– Hệ sinh thái nông nghiệp hiện đại: là hệ sinh thái có sự đầu tư đầu vào (phân bón, vật tư,...) và sản phẩm đầu ra (năng suất, chất thải,...) đều rất lớn. Nhằm tăng cường chu trình chuyển hoá vật chất trong hệ sinh thái nông nghiệp, mang lại giá trị kinh tế, con người đã đầu tư máy móc nông nghiệp, phân hoá học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, thuỷ lợi, giống cây trồng, vật nuôi cao sản. Do đó, hệ sinh thái nông nghiệp hiện đại đã thải ra môi trường nhiều phế thải gây ảnh hưởng xấu tới các hệ sinh thái xung quanh.
Nhận thức được lợi ích mà hệ sinh thái nông nghiệp đem lại và những ảnh hưởng xấu của hệ sinh thái nông nghiệp hiện đại, con người đã không ngừng nghiên cứu các yếu tố, mối liên hệ giữa hệ thống tự nhiên và xã hội, nhằm tìm ra các giải pháp thích hợp để nâng cao chất lượng hoạt động thực tiễn của con người, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.

Các hệ sinh thái nông nghiệp không tự ổn định mà đòi hỏi sự hỗ trợ đầu vào của con người làm cho chúng khác với các hệ sinh thái tự nhiên. Con người đã lựa chọn những đối tượng sinh vật phù hợp với điều kiện khí hậu, nông hoá thổ nhưỡng và các biện pháp chăm sóc giúp tăng năng suất nhằm đem lại giá trị kinh tế cao.
Nông nghiệp hữu cơ (hệ sinh thái nông nghiệp bền vững) đang lựa chọn các phương pháp canh tác truyền thống, sử dụng phân hữu cơ, hạn chế gây ô nhiễm môi trường; đồng thời sử dụng các phương pháp kiểm soát sâu bệnh thân thiện với môi trường. Mục đích của nông nghiệp bền vững là thiết lập một hệ thống bền vững về mặt sinh thái, mang tiềm lực kinh tế cao, có khả năng đáp ứng được nhu cầu của con người mà không làm suy thoái đất và ô nhiễm môi trường.
Nông nghiệp công nghệ cao (nông nghiệp 4.0) là các hoạt động sản xuất gắn với cây trồng, vật nuôi được kết nối mạng, nghĩa là các thông tin từ quá trình sản xuất cho đến giao dịch với đối tác được số hoá. Sử dụng tiến bộ của khoa học kĩ thuật trong việc tính toán mô phỏng quy trình canh tác, chăn nuôi, từ đó lựa chọn quy trình tối ưu để tiến hành sản xuất thực. Trong quá trình sản xuất, liên tục theo dõi thống kê để phân tích bằng trí tuệ nhân tạo nhằm điều chỉnh phù hợp, giúp đạt năng suất cao nhất.
Hệ sinh thái đô thị được con người thiết kế và duy trì. Trong mỗi hệ sinh thái đô thị, ngoài các thành phần hữu sinh (con người, động vật, thực vật, vi sinh vật,...), thành phần vô sinh (đất, nước, không khí, các yếu tố khí hậu,...), đô thị còn có thành phần công nghệ (các nhà máy sản xuất, phương tiện giao thông, mạng lưới điện, hệ thống internet,...).
Hệ sinh thái đô thị là trung tâm giáo dục, chính trị, tôn giáo, thương mại. Đây là khu vực tập trung đông dân cư sinh sống và hoạt động trong những lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp. Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, quá trình đô thị hoá ở các quốc gia đang diễn ra với tốc độ rất nhanh, đã tạo ra những thách thức lớn đối với thiên nhiên, con người. Giá trị của sinh thái nhân văn được thể hiện thông qua quá trình phát triển hệ sinh thái và phục hồi hệ sinh thái nhân văn đô thị bằng văn hoá.
Hệ sinh thái đô thị luôn tồn tại mối quan hệ xã hội giữa con người với con người (mối quan hệ rất đa dạng và phức tạp) và mối quan hệ giữa con người với môi trường bị giới hạn. Do đó, bậc dinh dưỡng cuối cùng là con người được ổn định. Chính vì vậy, hệ sinh thái đô thị là hệ sinh thái nhân văn điển hình.
Mục tiêu chung của phát triển hệ sinh thái đô thị bền vững (đô thị sinh thái bền vững) là quá trình kết hợp chặt chẽ, hợp lí, hài hoà giữa ba mặt: phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
Một trong những biểu hiện của phát triển hệ sinh thái đô thị bền vững là việc xây dựng các đô thị sinh thái.
Đô thị sinh thái là một đô thị mà mọi hoạt động kinh tế – xã hội đều cần các yếu tố sinh thái, xảy ra trong giới hạn sinh thái, giúp con người tiến gần đến thiên nhiên.
Đô thị sinh thái luôn hướng đến thiên nhiên dựa trên các nguyên lí về sinh thái học. Đây là một mô hình lí tưởng cho sự phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, đảm bảo con người được thực hiện các hoạt động sống trong một hệ thống sinh thái thuần khiết.
Cùng với đảm bảo tính toàn vẹn về cấu trúc, chức năng và tính đồng nhất của hệ sinh thái nhân văn đô thị, phục hồi văn hoá (hình thành và phát triển các mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người, gìn giữ văn hoá dân gian trong các lễ hội,...) được xem là nội dung quan trọng. Ví dụ: việc tích hợp quy hoạch không gian xanh vào không gian công cộng ở công viên, vườn hoa, đình, chùa,...).

Bảo tồn và phát triển là nhu cầu then chốt nhằm gìn giữ, phát huy các giá trị xã hội, tự nhiên, đồng thời đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.
Giá trị sinh thái nhân văn trong bảo tồn và phát triển bền vững được thể hiện thông qua bảo tồn đa dạng sinh học; bảo tồn, phục hồi các nguồn lực về thiên nhiên và các yếu tố văn hoá; bảo tồn tri thức bản địa.
Trong hệ sinh thái, mỗi loài sinh vật là một mắt xích khép kín trong chu trình vật chất, nếu mất đi một loài sẽ làm giảm độ bền vững. Vì vậy, đa dạng sinh học cần được bảo tồn bằng một loạt các biện pháp nhằm đảm bảo sự an toàn cho các loài, gene và hệ sinh thái, cụ thể như:
– Xây dựng những khu bảo tồn sinh học, khu du lịch, nuôi dưỡng, chăm sóc và bảo vệ những sinh vật có nguy cơ tuyệt chủng, tăng giống loài để góp phần ổn định hệ sinh thái.
– Xây dựng vành đai khu đô thị, làng bản; phân chia khu vực thành thị với nông thôn để các chất thải, khí thải hay khói bụi của đô thị không làm ảnh hưởng xấu đến môi trường tự nhiên, thuận lợi trong quy hoạch, xử lí các chất thải, hạn chế mức độ gây ô nhiễm môi trường.
– Lập danh sách và phân nhóm loài để có phương án phù hợp bảo vệ những loài sinh vật đang có nguy cơ tuyệt chủng.
– Tổ chức các hoạt động du lịch thân thiện với môi trường sẽ giúp cho mọi người trở nên yêu quý thiên nhiên, trân trọng, giữ gìn và có trách nhiệm với hệ sinh thái. Từ đó, sẽ có những suy nghĩ tích cực, hành vi đúng đắn với thiên nhiên.
– Tăng cường trồng rừng góp phần làm đa dạng sinh học; giúp đất cải tạo, điều hoà khí hậu; các hệ sinh thái được nâng cao.
Trong nền kinh tế thị trường, nguồn lực kinh tế xã hội thường được coi trọng hơn nguồn lực tự nhiên và văn hoá. Vì vậy, sinh thái nhân văn tập trung vào phục hồi các nguồn lực về thiên nhiên (rừng, hệ thống mặt nước, cây xanh đã biến mất hoặc suy giảm); phục hồi các yếu tố văn hoá vật thể và phi vật thể bị mai một do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường.
Di sản văn hoá của mỗi dân tộc đã góp phần tạo nên “sức mạnh mềm” tạo động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Việc bảo tồn được thực hiện dựa trên cơ sở chọn lọc được những tinh hoa, nét đặc sắc của các dân tộc để lưu giữ, truyền lại và đầu tư phát triển bền vững. Bên cạnh đó cần nhận diện và xoá bỏ những hủ tục, để có thể phát triển tốt nhất.
Tri thức bản địa (tri thức địa phương) là hệ thống tri thức của các cộng đồng cư dân bản địa với các quy mô khác nhau.
Tri thức bản địa được định hình dưới nhiều hình thức, được truyền từ đời này sang đời khác dưới nhiều phương thức khác nhau, hướng đến việc hướng dẫn, điều hoà các mối quan hệ xã hội và mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên.
Tri thức bản địa chứa đựng trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống xã hội. Đối với mục tiêu phát triển bền vững, bảo tồn tri thức bản địa có ý nghĩa to lớn, tri thức bản địa đóng vai trò quan trọng trên cơ sở phát triển dựa vào cộng đồng.
Bảo tồn tri thức bản địa cần có sự tham gia của mọi cá nhân; mọi cấp, ngành cùng các hình thức đa dạng như: bảo tồn nguồn gene sinh vật bản địa, bảo tồn tri thức truyền thống,...
Biến đổi khí hậu là sự thay đổi hệ thống khí hậu từ sinh quyển, khí quyển, thuỷ quyển, thạch quyển trong hiện tại và tương lai. Biến đổi khí hậu đã và đang là những thách thức đối với sự tồn tại, phát triển của con người và các sinh vật khác đang sống trong các hệ sinh thái.

Thích ứng biến đổi khí hậu là sự điều chỉnh hệ thống tự nhiên hoặc con người nhằm làm giảm những tác động bất lợi của khí hậu đến sức khoẻ, đời sống và sử dụng những cơ hội thuận lợi mà môi trường khí hậu mang lại.
a. Một số biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu
– Hạn chế sử dụng nhiều liệu hoá thạch (than đá, dầu mỏ,...), tìm kiếm các nguồn năng lượng thay thể thân thiện với môi trường như năng lượng gió, năng lượng mặt trời, thuỷ triều, địa nhiệt,...
– Sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng (điện, xăng dầu, than củi,...) cùng các tài nguyên (nước ngọt, rừng, tài nguyên sinh học, khoáng sản,...) trong sản xuất và sinh hoạt.
– Ngăn chặn nạn phá rừng, tích cực trồng và chăm sóc rừng; xây dựng các loại nhà thân thiện với môi trường.
– Chuyển đổi sang các mô hình sản xuất và sinh hoạt thích hợp với điều kiện khí hậu, đất đai, sinh thái mới; sử dụng các giống cây trồng, vật nuôi có khả năng chịu mặn cao, các giống ngắn ngày tránh lũ.
b. Giảm thiểu rủi ro thiên tại do biến đổi khí hậu
Tháng 3 năm 2015, tại Sendai, Nhật Bản, 187 quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam đã thông qua Khung Sendai về giảm thiểu rủi ro thiên tai, với bảy mục tiêu toàn cầu, mười ba nguyên tắc chỉ đạo, bốn nhóm hành động ưu tiên. Quan điểm chính của Khung Sendai là chuyển từ quản lí thiên tại truyền thống (tập trung vào ứng phó và phục hồi) sang giảm thiểu các rủi ro hiện hữu, tăng cường khả năng chống chịu ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, tự nhiên, văn hoá, xã hội và môi trường. Bốn nội dung ưu tiên trong Khung Sendai nhằm giảm thiểu rủi ro thiên tai:
(i) Tăng cường hiểu biết về rủi ro thiên tai;
(ii) Tăng cường quản lí rủi ro thiên tai;
(iii) Đầu tư vào giảm nhẹ rủi ro nhằm xây dựng khả năng chống chịu thiên tai;
(iv) Nâng cao khả năng sẵn sàng để ứng phó hiệu quả và “Xây dựng lại tốt hơn” trong phục hồi và tái thiết.
