Nội dung lý thuyết
Bệnh là tình trạng tổn thương hoặc sai lệch về cấu trúc, rối loạn hoạt động chức năng của cơ thể, được biểu hiện thông qua những triệu chứng nhất định.
Bệnh truyền nhiễm là các bệnh có khả năng lây truyền từ cá thể này sang cá thể khác một cách trực tiếp hoặc gián tiếp qua trung gian truyền bệnh. Nếu không được kiểm soát, bệnh truyền nhiễm có thể lây lan và bùng phát thành dịch. Sau khi mắc bệnh truyền nhiễm, bệnh sẽ tiến triển qua năm thời kì: ủ bệnh, khởi phát, toàn phát, lui bệnh và hồi phục. Tuy nhiên, một số trường hợp bệnh quá nhẹ sẽ không có giai đoạn toàn phát, còn bệnh quá nặng sẽ không có giai đoạn hồi phục.
Bệnh dịch là bệnh truyền nhiễm có khả năng lây lan mạnh trong cộng đồng và tạo thành dịch, gây những tổn hại lớn về sức khoẻ, kinh tế – xã hội.
Dịch là sự xuất hiện bệnh truyền nhiễm với số người mắc bệnh vượt quá số người mắc bệnh dự tính bình thường trong một khoảng thời gian xác định ở một khu vực nhất định sẽ tuyên bố đó là đại dịch.
Tác nhân gây bệnh dịch ở người rất đa dạng, có thể do virus, vi khuẩn, nấm hoặc kí sinh trùng. Tác nhân gây bệnh có tính đặc hiệu, nghĩa là mỗi tác nhân chỉ gây một bệnh truyền nhiễm nhất định.
Sau khi xâm nhập vào cơ thể, vi khuẩn có thể gây bệnh bằng cách tiết enzyme gây tổn thương, phá huỷ tế bào tại cơ quan mà chúng kí sinh (vi khuẩn gây bệnh lao phổi); tiết ra độc tố gây độc cho tế bào, làm ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ quan và cơ thể (vi khuẩn gây bệnh tả, lị, bạch hầu).

Kí sinh trùng gây bệnh ở người bằng cách xâm nhập, sinh sản và phá huỷ tế bào gây nên các bệnh khác nhau ở người. Kí sinh trùng gồm hai nhóm là kí sinh trùng đơn bào và đa bào. Ví dụ:
+ Trùng kiết lị gây các vết loét ở niêm mạc ruột non rồi nuốt các tế bào hồng cầu gây bệnh lị amip; trùng sốt rét xâm nhập và sử dụng chất dinh dưỡng trong các tế bào gan, tế bào hồng cầu để sinh sản với tốc độ rất nhanh, sau đó, phá huỷ các tế bào này để tiếp tục xâm nhập vào các tế bào khác.
+ Sán lá gan xâm nhập vào cơ thể người dưới dạng ấu trùng thông qua đường tiêu hoá. Sau khi xâm nhập vào cơ thể, ấu trùng di chuyển đến kí sinh và phát triển ở gan, hấp thụ chất dinh dưỡng và tiết chất độc phá huỷ các mô gan gây rối loạn tiêu hoá, xơ gan,...

Các loại nấm kí sinh gây bệnh ở người có thể kí sinh ở các vị trí bên ngoài cơ thể như: da, móng tay, móng chân hoặc kí sinh ở đường tiêu hoá, máu, âm đạo ở nữ giới,...
Tại nơi kí sinh, nấm gây bệnh bằng cách gây tổn thương cấu trúc của tế bào; rối loạn quá trình chuyển hoá các chất; tiết độc tố gây ung thư.

Virus là tác nhân gây nhiều bệnh truyền nhiễm nghiêm trọng ở người, trong đó, nhiều bệnh đã bùng phát thành đại dịch một cách nhanh chóng. Một trong những nguyên nhân làm cho virus trở thành tác nhân gây bệnh nguy hiểm là do chúng có cấu tạo đơn giản nên chúng dễ bị biến đổi dẫn đến phát sinh các chủng mới. Virus có thể gây bệnh bằng cách phá huỷ tế bào, mô; một số virus có thể gây đột biến gene khi hệ gene của virus được tích hợp vào hệ gene của tế bào chủ.

Lao phổi là căn bệnh chiếm khoảng 80 – 85 % trong tổng số các ca bệnh lao. Các đối tượng dễ mắc bệnh lao phổi như người thường tiếp xúc với nguồn bệnh; người mắc các bệnh suy giảm miễn dịch (ung thư, HIV); người nghiện rượu, bia, ma tuý hoặc sử dụng các loại thuốc ức chế miễn dịch, hoá chất trị ung thư trong thời gian dài; người sống trong môi trường ẩm ướt, có nhiều khói bụi;...
Người mắc bệnh lao phổi trước hết bị tổn thương các tế bào ở phổi và đường hô hấp gây nên các triệu chứng ho kéo dài hơn ba tuần (ho khan, họ có đờm, ho ra máu), đau ngực, khó thở. Sau đó, bệnh lây lan đến các cơ quan khác trong cơ thể dẫn đến nhiều triệu chứng khác như sốt nhẹ, chán ăn, sụt cân, mệt mỏi. Trường hợp biến chứng có thể gây tử vong do tràn dịch màng phổi.

Dịch tả là bệnh nhiễm trùng ruột non cấp tính ở người, bệnh nhân thường có triệu chứng đi ngoài ồ ạt, mất nước nhanh dẫn đến giảm thể tích máu, suy thận và có thể gây tử vong nếu không được chữa trị kịp thời.
Sau khi một lượng lớn vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể, phần lớn chúng sẽ bị tiêu diệt do pH acid ở dạ dày, đây là hàng rào bảo vệ đầu tiên của cơ thể để chống lại vi khuẩn tả; một phần nhỏ vi khuẩn sống sót và di chuyển đến ruột non. Các vi khuẩn này tiết ra enzyme mucinase và dựa vào khả năng di chuyển giúp chúng vượt qua được lớp màng nhầy của niêm mạc ruột non, tiếp xúc với các tế bào niêm mạc ruột. Tại đây, vi khuẩn liên kết với thụ thể trên bề mặt tế bào nhờ các protein cố định trên thành tế bào của chúng, giúp chúng có khả năng bám dính với ruột non, phát triển và tiết ra độc tố. Nhờ điều kiện môi trường thuận lợi, số lượng vi khuẩn gia tăng nhanh chóng và lượng độc tố sinh ra ngày càng nhiều. Độc tố sinh ra gắn vào tế bào niêm mạc ruột làm cho các tế bào này tiết các chất điện giải vào ruột, dẫn đến mất nước và giảm huyết áp. Đặc biệt, người mắc bệnh tả bị mất nhiều bicarbonate và potassium nên làm giảm pH máu.
Để điều trị kịp thời cho những bệnh nhân mắc dịch tả, yếu tố quan trọng nhất là cho bệnh nhân uống dung dịch bù nước và điện giải oresol (ORS) có chứa glucose và chất điện giải, qua đó thúc đẩy quá trình tái hấp thu sodium nhằm cải thiện tình trạng mất nước.
Từ khi dịch tả phát sinh lần đầu vào năm 1817 tại khu vực sông Ganges ở Ấn Độ, các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu về căn bệnh này. Sau bảy trận đại dịch bùng phát trên thế giới và tại Việt Nam, các nhà khoa học đã xác định được chủng vi sinh vật gây bệnh dịch tả và phương pháp điều trị hiệu quả cho các bệnh nhân mắc dịch tả. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), có 1,2 triệu ca mắc bệnh tả tại 34 quốc gia được ghi nhận vào năm 2017, trong đó có 140 000 ca tử vong.

Sốt rét là bệnh truyền nhiễm phổ biến và gây ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ cộng đồng. Bệnh thường phát sinh ở nhiều quốc gia vùng nhiệt đới. Bệnh có khả năng lây truyền từ người sang người thông qua vật chủ trung gian là muỗi Anopheles.
Trong cơ thể người bệnh, các tế bào hồng cầu chứa liệt trùng bị giảm tính đàn hồi, dễ kết dính với nhau và với các tế bào nội mạc của mạch máu; bên cạnh đó, các tế bào hồng cầu không bị kí sinh, tế bào bạch cầu và tiểu cầu cũng bị kết dính với tế bào hồng cầu bị nhiễm dẫn đến tình trạng lắng đọng của các tế bào hồng cầu gây tắc nghẽn các mạch máu.
Hiện tượng tắc nghẽn mạch máu có thể xảy ra ở các cơ quan như tim, phổi, thận, tuỷ xương, nhau thai (đối với phụ nữ mang thai). Việc gây nên sự lắng đọng của các tế bào hồng cầu giúp trùng sốt rét không bị bắt giữ và tiêu diệt, nhờ đó duy trì được mật độ trong máu.
Sự phá vỡ các tế bào hồng cầu theo chu kì 48 hoặc 72 giờ gây hiện tượng sốt rét cách nhật (có biểu hiện rét run và sốt cao), tuỷ xương bị ức chế, thiếu máu, huyết áp giảm,... Bệnh có thể biến chứng thành sốt rét ác tính dẫn đến suy hô hấp, thiếu máu nặng, giảm pH máu, gây rối loạn chức năng của các cơ quan, suy đa tạng dẫn đến tử vong.

Sởi là bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus sởi gây ra. Bệnh có tốc độ lây lan rất nhanh và có thể bùng phát thành dịch, bất kì ai chưa có miễn dịch đều có thể mắc bệnh, đặc biệt là trẻ em. Đa phần bệnh sởi thường nhẹ, tuy nhiên, có thể xuất hiện các biến chứng như viêm phổi, viêm màng não,... gây tử vong hoặc di chứng không thể phục hồi.

Sau khi vào cơ thể, virus sẽ nhanh chóng xâm nhiễm vào các tế bào biểu mô và tế bào bạch cầu ở đường hô hấp, tăng sinh và phóng thích vào máu. Trong máu, virus xâm nhập vào các tế bào bạch cầu, di chuyển đến các cơ quan như da, phổi, khí quản, lách, đường tiêu hoá,... gây tổn thương cho các cơ quan này và có thể dẫn đến các biến chứng như viêm phổi, viêm phế quản, tiêu chảy, viêm tai giữa,... thậm chí tử vong.
Người bệnh có triệu chứng sốt cao (39 – 40 °C), mệt mỏi, ho, da xuất hiện các nốt ban đỏ (từ ngày thứ 4 – 6 của bệnh; ban xuất hiện trước hết ở vùng mặt, tai, ngực, bụng, sau đó lan ra khắp cơ thể). Thông thường sau sáu ngày phát ban, các nốt ban sẽ dần biến mất theo trình tự xuất hiện, bệnh nhân dần hồi phục sức khoẻ.
Sốt xuất huyết là bệnh truyền nhiễm ở người thông qua vật chủ trung gian là muỗi vằn Aedes aegypti hoặc muỗi vằn Aedes albopictus; virus truyền từ người này sang người khác qua các vết đốt. Các loài vật chủ trung gian này thường sinh sống ở những nơi có nước đọng, ẩm thấp và tối trong nhà hoặc xung quanh nhà.
Bệnh sốt xuất huyết xảy ra quanh năm, tuy nhiên bệnh có sự gia tăng vào mùa mưa; mọi đối tượng đều có thể mắc bệnh nhưng trẻ em có khả năng mắc bệnh cao hơn.

Sau khi xâm nhập vào cơ thể, virus gây nên tình trạng tăng tính thấm, tổn thương thành mạch máu dẫn đến xuất huyết và rối loạn đông máu. Vị trí xuất huyết có thể ở da và mô dưới da, niêm mạc đường tiêu hoá, tim, gan, não,...
Bệnh nhân có triệu chứng sốt cao đột ngột (gần 40 °C) kèm theo các triệu chứng như đỏ mặt, da có hiện tượng xung huyết, đau nhức cơ, đau đầu, buồn nôn, chảy máu chân răng, chảy máu mũi,...
Hiện tượng tăng tính thấm của thành mạch gây thoát huyết tương và giảm thể tích huyết tương. Nếu lượng huyết tương thoát ra ngoài quá nhiều sẽ gây ra hiện tượng sốc xuất huyết làm tổn thương các cơ quan do thiếu máu, rối loạn tiêu hoá, giảm huyết áp, suy tim, thậm chí tử vong.
Hội chứng AIDS gây ra bởi virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV).
Khi vào trong cơ thể người, HIV xâm nhập vào các tế bào lympho T nhờ sự liên kết giữa gai glycoprotein của virus với thụ thể CD4+ trên màng tế bào lympho T. Sau khi xâm nhập vào trong tế bào, enzyme phiên mã ngược tiến hành tổng hợp DNA của virus từ RNA của chúng, DNA được tạo thành sẽ tích hợp vào DNA của tế bào lympho T và nhờ các enzyme trong tế bào để tiến hành phiên mã, dịch mã tổng hợp các protein của virus; cuối cùng các thành phần của virus lắp ráp lại với nhau để tạo thành virus hoàn chỉnh và phóng thích ra khỏi tế bào nhờ nảy chồi, kết quả làm cho hàng loạt tế bào lympho T bị phá vỡ dẫn đến làm giảm khả năng miễn dịch của cơ thể, do đó, người nhiễm HIV có nguy cơ tử vong cao do mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội.

Thông thường, người nhiễm HIV/AIDS nếu không được điều trị, bệnh sẽ phát triển qua ba giai đoạn:

– Giai đoạn sơ nhiễm (thời kì cửa sổ): HIV xâm nhập vào cơ thể, nhanh chóng phân tán khắp cơ thể và tấn công các tế bào đích. Trong giai đoạn này, lượng HIV trong cơ thể tăng lên nhanh chóng, cơ thể thường không xuất hiện triệu chứng hoặc biểu hiện triệu chứng nhẹ như sốt, phát ban, viêm hạch. Giai đoạn sơ nhiễm thường kéo dài từ 2 – 12 tuần.
– Giai đoạn không triệu chứng: thường kéo dài từ 1 – 10 năm. Trong giai đoạn này, HIV lẩn tránh sự kiểm soát của hệ miễn dịch do DNA của virus không hoạt động (không tổng hợp protein hoặc virus mới) dẫn đến các tế bào lympho T bị nhiễm có biểu hiện giống như các tế bào bình thường, nhờ đó, chúng không bị phát hiện và tiêu diệt bởi hệ miễn dịch. Bên cạnh đó, sự phân chia của các tế bào lympho T bị nhiễm đã tạo nên một lượng lớn DNA của virus trong cơ thể người. Ngoài ra, trong quá trình nhân lên, virus còn có khả năng đột biến với tần số cao trong cơ thể người làm biến đổi các protein bề mặt, ngăn cản sự nhận diện và tiêu diệt của hệ miễn dịch.
– Giai đoạn biểu hiện triệu chứng AIDS: được xác định khi xuất hiện triệu chứng của các bệnh nhiễm trùng cơ hội (viêm niêm mạc thực quản, viêm phổi, viêm màng não, tổn thương hệ thần kinh trung ương,...) hoặc các bệnh ác tính (như ung thư). Trong giai đoạn này, số lượng tế bào lympho T giảm mạnh (< 200 tế bào/mm”) nên không đủ khả năng tiêu diệt các mầm bệnh, dẫn đến cái chết cho người mắc bệnh.
Cúm là bệnh truyền nhiễm có khả năng bùng phát thành dịch nhanh chóng gây ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ con người và thiệt hại nền kinh tế – xã hội. Bệnh cúm có nhiều biểu hiện khác nhau tuỳ từng loại virus, có thể diễn biến từ nhẹ đến nặng, thậm chí tử vong.
Hiện nay, người ta đã phân loại virus cúm thành ba chủng A, B, C dựa vào cấu trúc kháng nguyên ở virus; trong đó, virus cúm A có khả năng gây bùng phát dịch mạnh nhất.

Một trong những nguyên nhân dẫn đến cúm A trở thành căn bệnh truyền nhiễm phổ biến hiện nay là do virus cúm A có khả năng biến đổi kháng nguyên để tạo ra các chủng mới một cách nhanh chóng. Vỏ của virus cúm có hai loại kháng nguyên: kháng nguyên gây ngưng kết hồng cầu H (Hemagglutinin) và kháng nguyên trung hoà N (Neuraminidase). Virus cúm A có tối thiểu khoảng 16 loại kháng nguyên H (H1 – H16) và 9 loại kháng nguyên N (N1 – N9) khác nhau
Trong tự nhiên, virus cúm A có thể lây truyền từ động vật sang động vật (đặc biệt ở các loài chim) và từ động vật sang người.

Sau khi vào đường hô hấp, virus cúm tiếp xúc với thụ thể trên màng sinh chất nhờ gai glycoprotein và xâm nhập vào các tế bào biểu mô ở đường hô hấp làm cho các tế bào này bị tổn thương, tiếp theo virus tấn công và gây tổn thương các tế bào khác như tế bào phế nang, tế bào tuyến nước bọt,... Virus tiến hành chu trình nhân lên trong tế bào khoảng 4 – 6 giờ, sau đó, hàng loạt các virus mới được phóng thích và xâm nhiễm vào các tế bào xung quanh.
Covid-19 (Coronavirus disease 2019) là bệnh viêm đường hô hấp cấp ở người gây ra bởi SARS-CoV-2. Bệnh bùng phát mạnh lần đầu tại thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc vào tháng 12 năm 2019, sau đó, đã lây lan nhanh chóng và bùng phát thành đại dịch toàn cầu vào tháng 3 năm 2020.
SARS-CoV-2 có khả năng lây truyền từ người sang người qua đường hô hấp.

SARS-CoV-2 sau khi xâm nhập có thể tấn công các tế bào niêm mạc ở đường hô hấp và nhiều cơ quan khác trong cơ thể, đặc biệt là ở phổi gây nên hiện tượng nhiễm trùng, viêm đường hô hấp, phù nề ở phổi, tổn thương phế nang,...
Khi số lượng virus tăng cao, chúng gây tổn thương các tế bào ở phổi dẫn đến sự rò rỉ dịch từ các mạch máu nhỏ trong phổi, các dịch này tích trữ trong phổi hoặc phế nang làm cản trở sự vận chuyển oxygen vào phổi gây hiện tượng khó thở, suy hô hấp.

Bên cạnh đó, SARS-CoV-2 còn xâm nhập vào các đại thực bào, tế bào bạch cầu ở phổi, kích thích các tế bào này giải phóng cytokine là tín hiệu để kích hoạt các tế bào đáp ứng miễn dịch. Cytokine được sản sinh ra nhanh chóng phát tán khắp cơ thể, kích hoạt nhiều tế bào bạch cầu khác tiết một lượng lớn cytokine gây nên “cơn bão cytokine” dẫn đến phản ứng viêm quá mức diễn ra khắp nơi trong cơ thể, kết quả là nhiều cơ quan khác nhau (tim, gan, thận, hệ thần kinh,...) bị tổn thương gây suy đa tạng; các tế bào nội mạc mạch máu bị tổn thương gây rối loạn quá trình đông máu; bệnh chuyển biến ngày càng nặng và cuối cùng là tử vong.