+ 1500 năm trước
Vợ được gọi là Nương tử
+ 700 năm sau
Vợ được gọi là Thê tử
Hiện tại đã...
Chuyển thành sư tử
1500 năm trước
Vợ được gọi là Nương tử
+ 700 năm sau
Vợ được gọi là Thê tử
Hiện tại đã...
Chuyển thành sư tử
Tương lai sẽ trở thành bom nguyên tử☺️
1 nghì năm về trước người ta gọi vợ là nương tử 500 năm về trước nưa người ta gọi vợ là thê tử còn bây giờ người ta gọi vợ là ????
sư tử còn tương lai người ta sẽ gọi vợ là ???? bom nguyên tử
chác chắn sẽ có nhiều bn bit rùi mk đăng cho vui nha vì vz đừng có chủi mk nha
Bây giờ người ta gọi vợ bằng mồm chứ bằng gì
Tk nha bạn
1000 năm trước vợ là nương tử, 500 năm trước vợ là thê tử, hiện nay vợ đang là sư tử và trong tương lai chắc sẽ là bom nguyên tử
I. Nội qui tham gia "Giúp tôi giải toán"
1. Không đưa câu hỏi linh tinh lên diễn đàn, chỉ đưa các bài mà mình không giải được hoặc các bài toán hay lên diễn đàn;
2. Không trả lời linh tinh, không phù hợp với nội dung câu hỏi trên diễn đàn.
3. Không "Đúng" vào các câu trả lời linh tinh nhằm gian lận điểm hỏi đáp.
Các bạn vi phạm 3 điều trên sẽ bị giáo viên của Online Math trừ hết điểm hỏi đáp, có thể bị khóa tài khoản hoặc bị cấm vĩnh viễn không đăng nhập vào trang web.
Mình đã xem hỏi đáp của bạn onlne rồi, bạn ấy lúc nào cũng bình luận, phê phán mọi người
Nếu bạn online ko thích câu hỏi của mình thì đừng có trả lời
8.1 nghìn năm trước người ta gọi vợ là nương tử
500 năm trước người ta gọi vợ là thê tử
còn bây giờ người ta gọi vợ là sư tử
tương lai thì chắc là bom nguyên tử...
Cá sư tử thì nhà khoa học được gọi là..................
A.Cá thiên thần B.Cá Mao Tiên C.Cá Chim
Xưng hô khi nói chuyện với người khác:
Tôi (cho phái nam)= Tại hạ/Tiểu sinh/Mỗ/Lão phu (nếu là người già)/Bần tăng (nếu là nhà sư)/Bần đạo (nếu là đạo sĩ)/Lão nạp (nếu là nhà sư già)
Tôi (cho phái nữ) = Tại hạ/Tiểu nữ/Lão nương (nếu là người già)/Bổn cô nương/Bổn phu nhân (người đã có chồng)/Bần ni (nếu là ni cô)/Bần đạo (nếu là nữ đạo sĩ)
Anh/Bạn (ý chỉ người khác) = Các hạ/Huynh đài/Công tử/Cô nương/Tiểu tử/Đại sư (nếu nói chuyện với nhà sư)/Chân nhân (nếu nói chuyện với đạo sĩ)
Anh = Huynh/Ca ca/Sư huynh (nếu gọi người cùng học một sư phụ)
Anh (gọi thân mật)= Hiền huynh
Em trai = Đệ/Đệ đệ/Sư đệ (nếu gọi người cùng học một sư phụ)
Em trai (gọi thân mật) = Hiền đệ
Chị = Tỷ/Tỷ tỷ/Sư tỷ (nếu gọi người cùng học một sư phụ)
Chị (gọi thân mật) = Hiền tỷ
Em gái = Muội/Sư muội (nếu gọi người cùng học một sư phụ)
Em gái (gọi thân mật) = Hiền muội
Chú = Thúc thúc/Sư thúc (nếu người đó là em trai hoặc sư đệ của sư phụ)
Bác = Bá bá/Sư bá (Nếu người đó là anh hoặc sư huynh của sư phụ)
Cô/dì = A di (Nếu gọi cô ba thì là tam di, cô tư thì gọi là tứ di….)
Dượng (chồng của chị/em gái cha/mẹ) = Cô trượng
Thím/mợ (vợ của chú/cậu) = Thẩm thẩm (Nếu gọi thím ba thì là tam thẩm, thím tư thì gọi là tứ thẩm…)
Ông nội/ngoại = Gia gia
Ông nội = Nội tổ
Bà nội = Nội tổ mẫu
Ông ngoại = Ngoại tổ
Bà ngoại = Ngoại tổ mẫu
Cha = Phụ thân
Mẹ = Mẫu thân
Anh trai kết nghĩa = Nghĩa huynh
Em trai kết nghĩa = Nghĩa đệ
Chị gái kết nghĩa = Nghĩa tỷ
Em gái kết nghĩa = Nghĩa muội
Cha nuôi = Nghĩa phụ
Mẹ nuôi = Nghĩa mẫu
Anh họ = Biểu ca
Chị họ = Biểu tỷ
Em trai họ = Biểu đệ
Em gái họ = Biểu muội
Gọi vợ = Hiền thê/Ái thê/Nương tử
Gọi chồng = Tướng công/Lang quân
Anh rể/Em rể = Tỷ phu/Muội phu
Chị dâu = Tẩu tẩu
Cha mẹ gọi con cái = Hài tử/Hài nhi hoặc tên
Gọi vợ chồng người khác = hiền khang lệ (cách nói lịch sự)
=======================================
Khi nói chuyện với người khác mà nhắc tới người thân của mình:
Cha mình thì gọi là gia phụ
Mẹ mình thì gọi là gia mẫu
Anh trai ruột của mình thì gọi là gia huynh/tệ huynh (cách nói khiêm nhường)
Em trai ruột của mình thì gọi là gia đệ/xá đệ
Chị gái ruột của mình thì gọi là gia tỷ
Em gái ruột của mình thì gọi là gia muội
Ông nội/ngoại của mình thì gọi là gia tổ
Vợ của mình thì gọi là tệ nội/tiện nội
Chồng của mình thì gọi là tệ phu/tiện phu
Con của mình thì gọi là tệ nhi
=======================================
Khi nói chuyện với người khác mà nhắc tới người thân của họ:
Sư phụ người đó thì gọi là lệnh sư
Cha người đó là lệnh tôn
Mẹ người đó là lệnh đường
Cha lẫn mẹ người đó một lúc là lệnh huyên đường
Con trai người đó là lệnh lang/lệnh công tử
Con gái người đó là lệnh ái/lệnh thiên kim
Anh trai người đó thì gọi là lệnh huynh
Em trai người đó thì gọi là lệnh đệ
Chị gái người đó thì gọi là lệnh tỷ
Em gái người đó thì gọi là lệnh muội
=======================================
Một số từ khác:
Gọi nhà của mình theo cách khiêm nhường lúc nói chuyện với người khác thì gọi là tệ xá/hàn xá
Đứa bé thì gọi là tiểu hài nhi… bé gái thì gọi là nữ hài nhi… bé trai thì gọi là nam hài nhi
Gửi làm cái quái gì mà ko thấy câu hỏi lại còn mất công chép?
“Nương tử, khi nào chúng ta mới trở thành phu thê?” Dạ Vô Trần mỉm cười nhìn Mộ Như Nguyệt.
Không thể không nói hắn lớn lên rất đẹp, giống như trăng sáng trên bầu trời, lại tựa như dòng suối thanh khiết dưới mặt đất, đặc biệt là khi cười rộ lên, dường như toàn thế giới đều tràn ngập ánh sáng.
Một nam nhân tuấn mỹ như thế, dù bên ngoài cũng có không ít khuê nữ vứt khăn lụa cho hắn hoặc liếc mắt đưa tình với hắn, nhưng có bao nhiêu người biết hắn chính là Quỷ Vương?
Mộ Như Nguyệt chăm chú nhìn khuôn mặt tuấn tú gần trong gang tấc, cảm nhận được hơi thở nóng rực đối phương phả trên mặt nàng, có chút không thoải mái quay đầu đi, nói: “Vô Trần, ngươi biết phu thê nghĩa là gì sao?”
“Biết, phụ vương đã từng dạy ta”, Dạ Vô Trần tựa hồ không thấy được Mộ Như Nguyệt không thoải mái, tiếp tục nhích lại gần nàng, “Phụ vương từng nói, làm một trượng phu tốt phải yêu thương thê tử, cả đời chỉ tốt với một mình nàng, cả đời cũng chỉ có một nữ nhân là nàng, bất luận thê tử nói gì đều đúng, cho dù không đúng cũng phải đúng, thê tử phân phó cái gì đều phải tuân thủ, nếu có người khi dễ nương tử, phải ra mặt vì nàng, không cho phép bất cứ kẻ nào nói không, nhất quyết không để thê tử rơi một giọt nước mắt, muốn nàng lúc nào cũng hạnh phúc.”
Đôi mắt Dạ Vô Trần sáng lạn, mắt cũng không nháy nhìn Mộ Như Nguyệt: “Nương tử, ta sẽ giặt quần áo, sẽ nấu cơm, ngươi có thể cùng ta về vương phủ không?”
< tuyệt sắc đan dược sư : quỷ vương yêu phi >
Thành nhà Hồ (còn được gọi là Thành Tây Đô) ở Thanh Hóa được xây dựng năm 1397 là tòa thành kiên cố, quy mô lớn với kiến trúc bằng đá độc đáo. Năm 2011, công trình này đã được UNESCO ghi danh là Di sản Văn hóa Thế giới. Thành nhà Hồ gắn liền với lịch sử của nhà Hồ và cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược.
Vậy nhà Hồ được thành lập trong hoàn cảnh nào? Nhà Hồ đã thực hiện những chính sách gì để xây dựng và bảo vệ đất nước? Vì sao cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược của nhà Hồ nhanh chóng bị thất bại.
- Sự thành lập:
+ Cuối thế kỉ XIV, nhà Trần suy yếu.
+ Năm 1400, Hồ Quý Ly phế truất vua Trần và lên ngôi vua lập ra nhà Hồ, đổi tên nước thành Đại Ngu => nhà Hồ được thành lập.
- Để xây dựng và bảo vệ đất nước, nhà Hồ đã thực hiện nhiều chính sách cải cách trên các lĩnh vực: chính trị - quốc phòng, kinh tế, xã hội và văn hóa – giáo dục.
- Nguyên nhân thất bại của cuộc kháng chiến:
+ Đường lối chống giặc sai lầm của nhà Hồ, đã không dựa vào nhân dân để chống giặc mà chỉ chiến đấu đơn độc.
+ Hạn chế trong các chính sách cải cách của Hồ Quý Ly làm cho đông đảo quần chúng nhân dân thiếu tin tưởng nên họ không ủng hộ nhà Hồ trong cuộc kháng chiến chống quân Minh.
Thành nhà Hồ (còn được gọi là Thành Tây Đô) ở Thanh Hóa được xây dựng năm 1397 là tòa thành kiên cố, quy mô lớn với kiến trúc bằng đá độc đáo. Năm 2011, công trình này đã được UNESCO ghi danh là Di sản Văn hóa Thế giới. Thành nhà Hồ gắn liền với lịch sử của nhà Hồ và cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược.
Vậy nhà Hồ được thành lập trong hoàn cảnh nào? Nhà Hồ đã thực hiện những chính sách gì để xây dựng và bảo vệ đất nước? Vì sao cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược của nhà Hồ nhanh chóng bị thất bại.
+ Cuối thế kỉ XIV, nhà Trần suy yếu.
+ Năm 1400, Hồ Quý Ly phế truất vua Trần và lên ngôi vua lập ra nhà Hồ, đổi tên nước thành Đại Ngu => nhà Hồ được thành lập.
- Để xây dựng và bảo vệ đất nước, nhà Hồ đã thực hiện nhiều chính sách cải cách trên các lĩnh vực: chính trị - quốc phòng, kinh tế, xã hội và văn hóa – giáo dục.
- Nguyên nhân thất bại của cuộc kháng chiến:
+ Đường lối chống giặc sai lầm của nhà Hồ, đã không dựa vào nhân dân để chống giặc mà chỉ chiến đấu đơn độc.
+ Hạn chế trong các chính sách cải cách của Hồ Quý Ly làm cho đông đảo quần chúng nhân dân thiếu tin tưởng nên họ không ủng hộ nhà Hồ trong cuộc kháng chiến chống quân Minh.