ý nghĩa của vân tay
Tuyển Cộng tác viên Hoc24 nhiệm kì 26 tại đây: https://forms.gle/dK3zGK3LHFrgvTkJ6
Ý nghĩa nhan đề của đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”.
- Ca ngợi tình nghĩa giữa con người với con người trong xã hội: tình nghĩa vợ chồng, tình cha con, mẹ con, tình cảm bạn bè, lòng yêu thương sẵn sàng cưu mang, đùm bọc những người gặp cơn hoạn nạn.
- Đề cao tinh thần nghĩa hiệp, sẵn sàng cứu khốn phò nguy.
- Thể hiện khát vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bằng và những điều tốt đẹp trong cuộc đời: thiện thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà.
ý nghĩa trận đánh ở Vân Đồn( 1287 của nhà Trần)
( tóm tắt)
- Nhà Trần khẩn trương chuẩn bị kháng chiến, tăng cường phòng thủ ở những nơi hiểm yếu, nhất là vùng biên giới và vùng biển.
- Cuối tháng 12 — 1287, khoảng 30 vạn quân Nguyên tràn vào nước ta. Quân bộ do Thoát Hoan chỉ huy, vượt biên giới đánh vào Lạng Sơn đến Bắc Giang rồi kéo về Vạn Kiếp. Quân thuỷ do Ô Mã Nhi chỉ huy theo đường biển tiến vào sông Bạch Đằng, rồi cùng tiến về Vạn Kiếp.
- Tại Vân Đồn, Trần Khánh Dư chỉ huy triển khai quân mai phục, khi đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ đến, quân Trần tấn công quyết liệt, nhiều thuyền lương bị đánh chìm, một số còn lại quân ta chiếm.
- Cuối tháng 1-1288, thực hiện "Vườn không nhà trống", Thoát Hoan kéo quân vào kinh thành Thăng Long trống vắng. Sau trận Vàn Đồn, tình thế quân Nguyên rời vào khó khăn, lương thực ngày càng cạn kiệt, quân giặc ở Thăng Long . Thoát Hoan quyết định rút quân về Vạn Kiếp và rồi rút quân về nước theo hai đường thuỷ, bộ.
- Nhà Trần mở cuộc phản công ở cả hai mặt trận thuỷ, bộ :
+ Chiến thắng Bạch Đằng tháng 4-1288, đoàn thuyền của Ô Mã Nhi rơi vào trận địa bãi cọc trên sông Bạch Đằng do quần Trần bố trí từ trước, cuộc chiến đấu ác liệt diễn ra, Ô Mã Nhi bị bắt sống.
+ Trên bộ, Thoát Hoan dẫn quân từ Vạn Kiếp theo hướng Lạng Sơn rút về Trung Quốc, bị quân ta liên tục chặn đánh.
- Cuộc kháng chiến lần thứ ba chống quân xâm lược Nguyên kết thúc thắng lợi
cắt đứt nguồn lương thực,đẩy giặc vào thế trạng khốn đốn
- Đập tan ý đồ xâm chiếm Đại Việt của đế chế Nguyên. Kế hoạch bành trướng xuống các nước phía Nam Trung Quốc bị phá tan.
ý nghĩa lịch sử của trận đánh ở Vân Đồn ( 1287 của nhà Trần)
( Trình bày ngắn gọn)
Nói đến thắng lợi lần thứ ba của quân dân ta trong lịch sử ba lần chiến thắng giặc Nguyên Mông, ta thường nghĩ ngay đến trận đại thắng trên sông Bạch Đằng mùa xuân 1288. Đây là chiến thắng vĩ đại, khiến cho không chỉ vua tôi nhà Nguyên thời đó là Hốt Tất Liệt, mà cả nhiều triều đại phong kiến Trung Quốc sau này phải khiếp sợ...
“Đến nay nước sông tuy chảy hoài
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi...” (Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu)
Nhưng để có trận thắng oai hùng ấy, không thể không kể đến một trận đánh khác trước đó mấy tháng của quân dân vùng Hải Đông (tên gọi cũ của vùng biển Quảng Ninh ngày nay) dưới sự chỉ huy của tướng quân Trần Khánh Dư ở Vân Đồn - Cửa Lục. Nếu coi trận đại thắng Bạch Đằng là cú “nốc ao” hạ gục đối thủ thì trận thuỷ chiến tại vùng biển Vân Đồn - Cửa Lục chính là cú đánh mang ý nghĩa then chốt, làm sụp đổ hoàn toàn nhuệ khí của kẻ địch...
Theo các tài liệu lịch sử còn ghi lại, vào cuối tháng 11 năm Đinh Hợi, 1287, binh thuyền của tướng Nguyên là Ô Mã Nhi bắt đầu xuất phát, theo đường biển vào nước ta. Và ngày 28-11 âm lịch (tức ngày 2-1-1288), đoàn thuyền binh này đã bị quân ta phục đánh tại cửa Vạn Ninh (Móng Cái). Mặc dù bị tổn thất khá lớn trong trận thuỷ chiến này, song đạo binh của Ô Mã Nhi vẫn tiếp tục tiến quân, hướng về Vân Đồn để vào An Bang. Tại đây, tướng quân Trần Khánh Dư đã có một trận giao chiến với địch nhưng vẫn không chặn được bước tiến của chúng. Thượng Hoàng Trần Thánh Tông sai quan trung sứ đến trách hỏi, bắt ông phải về kinh chịu tội. Trần Khánh Dư đã trả lời quan trung sứ rằng: “- Lấy quân luật mà xử, tôi xin chịu tội; nhưng xin hoãn vài ba ngày để tôi lập công chuộc tội rồi sẽ chịu búa rìu cũng chưa muộn!”...
Trần Khánh Dư đoán chắc như vậy là bởi theo nhiều nguồn tin, ông biết theo sau đạo binh của Ô Mã Nhi còn có đoàn thuyền lương của địch cũng đang tiến vào Vân Đồn. Và ngay lập tức, một trận địa phục kích địch được tổ chức tại các vị trí hiểm yếu ở khu vực biển Vân Hải - Cửa Lục. Theo kế hoạch, quân ta đợi giặc tiến vào vùng Vân Hải, sẽ cho thuyền nhẹ ra khiêu chiến, nhử giặc tiến sâu vào Cửa Lục rồi phục binh đổ ra tiêu diệt...
Đúng như dự tính, mấy ngày sau, đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ theo gió đông bắc, nặng nề tiến vào trận địa của quân ta. Theo lệnh của Trần Khánh Dư, một số thuyền chiến quân ta xông ra đón đánh. Bọn địch kháng cự nhưng không ngờ có phục binh nên vẫn cố sức tiến lên. Đến Cửa Lục, chúng tiếp tục bị quân ta đón đánh quyết liệt. Lúc này các thuyền chiến mai phục của ta mới xông ra, nhằm các thuyền chở đầy lương thảo nặng nề của địch mà đánh tới. Quân địch bị thua tan tác, số bị bắt, số bị chết đuối chìm xuống biển sâu. Chủ tướng Trương Văn Hổ chỉ kịp dùng một chiếc thuyền nhỏ chạy tháo thân về Quỳnh Châu (đảo Hải Nam - Trung Quốc bây giờ). Quân ta đại thắng, bắt được quân lương, khí giới của giặc nhiều không kể xiết...
Thảm bại tại Vân Đồn - Cửa Lục thật ê chề với quân tướng nhà Nguyên. Sử nhà Nguyên khi nhắc đến đạo binh của Ô Mã Nhi trong lần này cũng không thể che giấu, phải chép rằng:“Đến biển Lục Thuỷ, thuyền giặc thêm nhiều, liệu chừng không địch nổi, mà thuyền lại nặng, không thể đi nhanh được, bèn đổ thóc xuống biển rồi ra Quỳnh Châu...”.
Còn về phía quân ta, có thể nói chiến thắng Vân Đồn-Cửa Lục thực sự rất quan trọng, làm chấn động đến toàn bộ quân địch trên mọi chiến trường trong cả nước. Đòn đánh “vào dạ dày” này khiến binh sĩ Nguyên Mông rã rời, thực sự suy yếu, chỉ còn mong sớm rút lui về nước, mặc dù số quân chưa bị hao tổn bao nhiêu
Ý nghĩa của chiến thắng trận Vân Đồn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 3?
* Ý nghĩa trận Vân Đồn :Tạo thời cơ để nhà Trần mở cuộc phản công tiêu diệt quân Nguyên .
Bạn tham khảo nhé! Chúc bạn học tốt
- Đập tan ý đồ xâm chiếm Đại Việt của đế chế Nguyên. Kế hoạch bành trướng xuống các nước phía Nam Trung Quốc bị phá tan.
Ý nghĩa: Phá tan những chiến thuyền lương nhằm đẩy giặc vào tình thế bị động khi quân Trần mở cuộc phản công.
VĂN BẢN |
Ý NGHĨA NHAN ĐỀ |
Ý NGHĨA VĂN BẢN |
Cổng trường mở ra |
|
|
Mẹ tôi |
|
|
Cuộc chia tay của những con búp bê |
|
|
Em hãy nêu địa điểm, người lãnh đạo, nguyên nhân, kết quả-ý nghĩa của cuộc khởi nghĩa Phan Bá Vành, Nông Văn Vân, Lê Văn Khôi, Cao Bá Quát
Nêu ý nghĩa trận Vân Đồn có ý nghĩa và tác dụng như thế nào trong lần kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 3 (1287-1288)
Tác dụng là tạo thời cơ để nhà Trần mở cuộc phản công tiêu diệt quân Nguyên
Ý nghĩa là Phá tan những chiến thuyền lương nhằm đẩy giặc vào tình thế bị động khi quân Trần mở cuộc phản công.
Tại sao người ta lại gọi là cơ vân? Bản chất và ý nghĩa của sự co cơ
Gọi là mô cơ vân cũng được, mô cơ là chỉ chung, trong mô cơ thì lại chia thành mô cơ trơn, mô cơ vân, mô cơ tim.
Gọi là mô cơ vân vì chúng bao gồm các tế bào cơ vân. Gọi là cơ vân vì trên tế bào của chúng có những vân nằm ngang, nằm dọc hoặc cả 2.
Tính chất:
Tính chất cơ bản của cơ là co và giãn.Cơ co khi có sự kích thích từ môi trường ngoài.Sự co cơ là khi tơ cơ mảnh xuyên sâu vào vùng phân bố của tơ cơ dày làm cho cơ ngắn lại.
Ý nghĩa: Làm cho xương cử động dẫn đến sự vận động của cơ thể.
Giải thích ý nghĩa câu nói của Lục Vân Tiên:"Nhớ người kiến nghĩa bất vi/ Làm người thế ấy cũng phi anh hùng"
Ngắn gọn thui nhé !
Hơn một trăm năm nay, có biết bao nhiêu người ưa thích tác phẩm "Truyện Lục Vân Tiên" vì trong đó có những nhân vật sống và hành động theo một phương châm cao quý được tác giả bộc lộ qua câu thơ sau:
Nhớ người kiến nghĩa bất vi Làm người thế ấy cũng phi anh hùng
Trước hết, ta thử tìm hiểu ý nghĩa của câu thơ ấy. Nội dung câu này có thể hiểu là: thấy việc nghĩa mà không làm thì không phải anh hùng.
Tư tưởng này thể hiện một lẽ sống cao thượng. Cao thượng bởi vì nó yêu cầu làm việc nghãi một cách vô điều kiện: làm việc nghĩa trong bất cứ hoàn cảnh nào, trước bất kì khó khăn không sợ thiệt thòi đến bản thân, không sự nguy hiểm, không mong được ca tung, không đợi được đền bù. Cao thượng bơi vì nó có ích cho đời. Nó cứu giúp người yếu đuối khi bị bức hại; nó giúp người nghèo khổ khi gặp khó khăn, nó dám chống lại quyền uy kẻ giàu sang, bạo lực kẻ côn đồ để bảo vệ công lý. Đó là qua nđiểm đề cao tinh thần xả thân vì nghĩa.
Rõ ràng những người sống có lý tưởng trong tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu là cao quý. Luc Vân tiên chỉ cần nghe tiếng kêu cứu của người bị nạn là xông vào giữa bọn cướp để cứu cho người khỏi nạn. Lục Vân Tiên chỉ kịp bẻ một cành cây bên đường làm vũ khỉ để "tả đột hữu xung" trước bọn cướp vừa đông đúc tàn bạo. Hoàn thành nhiệm vụ, chàng không những từ chối hành động trả ơn, còn từ chối cả thái độ biết ơn. Với chàng, sống trên đời, gặp việc như thế ai cũng phải hành động tùy sức mình. Những bạn chàng như Hớn Minh, Vương Tử Trực và cả Kiểu Nguyệt Nga nữa, trong những hoàn cảnh khác nhau, cũng đều hành động với tinh thần cao cả ấy.
Trong lịch sử nước nhà, dã có không ít những tấm gương thấy việc nghĩa thì làm như thế. Chỉ riêng trong thời đại Nguyễn Đình Chiểu, trước cuộc xâm lăng của bọn thực dân Pháp, có biết bao sĩ phu đã đứng lên, cùng nhân dân đánh giặc theo tinh thần ấy. Nhiều khi họ biết thất bại là điều khó tránh nhưng vẫn làm. Tại sao? Vì cứu cho đất nước khỏi bị xâm lăng, que hương khỏi bị giày xéo là bổn phận của mọi công dân. Tinh thần vì nghĩa ấy mạnh mẽ đến nõi như người anh hùng Nguyễn trung Trực đã nói: "Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây".
Lối sống "vì việc nghĩa", "sẵn sàng làm việc nghĩa" ấy vẫn là một lối sống đáng ca ngợi trong thời đại chúng ta. Nếu có điều cần làm rõ và nhấn mạnh trong lối sống ấy thì đó là: cần xác định thế nào là việc nghĩa. Việc nghĩa phù hợp chính nghĩa của thời đại, việc có ích cho nước, có lợi cho dân. Bởi thế, Lê Văn Tám tự đốt mình làm ngọn đuốc để đốt cháy kho xăng giặc, Bế Văn Đàn lấy thân là mgias súng để bắn giặc, Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai, ...
Hôm nay trong cuộc sống bình thường, có những thanh niên bình thường, một anh xích lô, một anh dân phòng, dám một mình đánh cướp để bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân. Có những người, không sợ thù oán, dá, dũng cảm tố cáo tôi ác bọn lưu manh hay những kể lộng quyền. họ chính là những Lục Vân Tiên thời này ....
Sống cao thượng, sống anh hùng bao giờ cũng là lối sống hấp dẫn thế hệ trẻ chúng ta. Nhưng không phải chờ đến việc anh hùng mới có thể sống theo lối sống anh hùng. Không phải đợi đến việ lớn mới làm việc nghĩa. Có những việc nghãi rất bình thường. Phải biết làm và tập làm việc nghĩa từ những việc nhỏ nhặt như thế. Dắt một em bé, một người già, một người tàn tật qua đường, tham gia dạy một lớp học tình thương, chia sẻ với các em bé mồ côi món tiền ăn sáng của mình, tham gia một đợt công tác cứu trợ xã hội, ... tất cả đều là việc nghĩa.
Dân tộc Việt nam là một dân tộc giàu nhân nghĩa. Tuy không phải ai cũng trở thành anh hùng nhưng lối sống anh hùng sẵn sàng làm việc nghĩa là lối sống chung của đại đa số nhân dân ta. Lối sống đẹp đó dã trở thành phẩm chất đạo đức mang tính truyền thống của con người Việt Nam.
k nhé
“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.
“Kiến nghĩa bất vi” nghĩa là thấy việc nghĩa mà không làm. “Phi anh hùng” là không phải anh hùng. Hai câu thơ nêu lên một phương châm, một lẽ sống: Thấy việc nghĩa mà không làm thì con người như thế không đáng mặt anh hùng, thậm chí đó là kẻ tầm thường. Tự phủ định để đi khẳng định về một lẽ sống cao đẹp của người anh hùng ngày xưa đề cao tinh thần nghĩa hiệp, hành động hướng tới nhân nghĩa; coi việc nghĩa là đời là trách nhiệm cao cả thiêng liêng.
Tại sao lại khi thấy việc nghĩa mà không làm, như thế không phải là anh hùng? Việc nghĩa ở đây là nhân nghĩa, là tình thương người, chở che bênh vực người bị áp bức, bị hại. Là tinh thần cương quvết chống lại cái ác, chống lại hung tàn bạo ngược để bảo vệ hạnh phúc, tài sản và tính mệnh của nhân dân. Đã là người anh hùng thì phải xả thân vì việc nghĩa, coi việc nghĩa là lẽ sống cao đẹp của mình, sẵn sàng đem tài năng và lòng dũng cảm để làm cho việc nghĩa tỏa sáng trong lòng người. Đạo lí nhân dân đề cao và coi trọng nhân nghĩa. Bởi vậy, những kẻ thấy việc nghĩa mà không làm, dửng dưng trước nỗi đau buồn, bất hạnh của đồng loại, thì nhửng kẻ ấy không đáng mặt là anh hùng, thậm chí đó là những kẻ đạo đức giả rất tầm thường. Anh hùng phải gắn bó với nhân dân, với nỗi lo, nỗi đau, niềm vui và sự mơ ước của nhân dân. Anh hùng phải bảo vệ và phấn đấu cho hạnh phúc của nhân dân. Có như thế mới xứng đáng là người anh hùng chân chính.
Hai câu thơ:“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi /Làm người thế ấy cũng phi anh hùng” nêu lên một quan niệm về anh hùng rất đúng đắn, tích cực.
Nhân nghĩa là nội dung đạo lí nhân dân. Người có nhân nghĩa mới được nhân dân quý mến, kính trọng. Người anh hùng sống và chiến đấu vì lợi ích của nhân dân, đem tài năng bảo vệ nhân dân, đó là con người nhân nghĩa.
Bọn bất lương, lũ hung tàn bạo ngược thì bất nhân bất nghĩa. Vì nhân nghĩa mà phải chống lại bạo ngược hung tàn. Muốn chống lại cái ác, chống lại cường quyền, bạo ngược đâu dễ mà ai cũng làm được? Phải có lòng dũng cảm và quyết tâm như sắt đá, phải có tài năng mưu trí, dám xả thân vì việc nghĩa, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng - Làm được thế, có phẩm chất như thế mới xứng đáng là anh hùng. “Xả thân, thủ nghĩa” là phương châm xử thế của tráng sĩ xưa nay.