Văn bản ngữ văn 10

Bình Trần Thị
Xem chi tiết
Phan Thùy Linh
4 tháng 5 2016 lúc 6:33

ó là câu đối chúng ta vẫn thường thấy trên ban thờ của Quan Đế-vị thánh trong lịch sử Tam Quốc được rất nhiều gia đình người Hoa,Việt và một số quốc gia châu Á khác thờ trong nhà.Ông cũng là một vị tướng gây nhiều tranh luận trong lịch sử Trung Hoa và không ít kẻ có ý kiến rằng Quan Vũ sinh thời có nhiều khuyết điểm như ông quá Ngạo mạn,chủ quan khinh suất và bản ngã quá mạnh đến độ làm ảnh hưởng đến đại cục... Mỗi ý kiến đều có cơ sở riêng nhưng dẫu sao ông cũng được đại quần chúng tôn vinh thờ phụng ngót nghét 2000 năm nay.Hôm nay mình xin có vài lời góp nhặt lý giải và ca ngợi ông để chúng ta cùng nhất trí rằng dù ai có nói gì thì Quan Vũ vẫn là bậc thánh nhân đáng tôn thờ.
Quan Vũ -tự Vân Trường theo chính sử ông sn 162 và mất năm 220(có ý kiến cho rắng ông sn 165) tại Giả Châu. Thuở nhỏ nhà nghèo nhưng vẫn được phụ thân đầu tư cho đi học cả văn lẫn võ.Thời thanh niên ông kiếm sống bằng nghề đẩy xe bán đậu phụ( tâng lớp lao động nghèo) nên ông rất thương cảm cho giai cấp dân đen lao động.Tính tình cương trực hiệp nghĩa hay bênh vực kẻ yếu ghét bọn cường hào nên một lần thấy chuyện bất bình ông đã phạm tội giết một kẻ ác ức hiếp dân lành > phải lưu đến Trác Quận.
Khi loạn giặc khăn Vàng nổi lên ông tình cờ gặp Lưu Bị và Trương Phi và cả ba kết nghĩa huynh đệ vì cùng chung lý tưởng phò Hán....tuy Lưu Bị là tôn thân nhà Hán nhưng đó chỉ là 1 cái cớ để tăng thêm sức mạnh và lý tưởng của 3 người mà thôi và trong lòng Quan Vũ thì ông luôn luôn khắc ghi tình cảm huynh đệ chung lý tưởng dẹp loạn,và mối quan hệ tình cảm của họ ngay cả khi Lưu Bị đã xưng vương thì 3 anh em họ vẫn đãi nhau = tấm lòng huynh đệ ngày nào chứ chưa bao giờ theo anh để lăng xê anh lên làm vua kiếm tý chức sắc.Chính vì lẽ đó mà khi Tào Tháo chộp được ông cùng gia quyến của Lưu Bị đã dùng mọi cách để thu phục lòng ông nhưng tấm lòng son sắt của ông chỉ biết đến có lời kết nghĩa vườn đào chứ nào biết đến ngọc ngà châu báu gái đẹp tiền nhiều mà có thể mua lấy.Sự lệch lạc ở đây chính là lý tưởng sống của ba anh em họ đã quá rõ ràng.Quan Trương theo Lưu là hai tiểu đệ theo đại huynh chứ không phải hai võ tướng tìm chủ mạnh để lập nghiệp .Mặc dù còn thuở ban sơ nhưng ông đã dám nói với Tào Tháo rằng nếu anh tôi đã mất tôi xin theo xuống đất.Khi ông biết tin anh cón sống lập tức từ biệt Tào Tháo lên đường.Các nhà sử học cho rằng Tào Tháo là người tôn thờ Quan Vũ đầu tiên trong lịch sử khi cay đắng để Quan Vũ ra đi.Khi vội ra đi không kịp xin visa ông bị các tướng giữ ải ngăn lại.Quan Vũ đang nóng lòng tìm anh không cần biết chúng mày làm theo luật gì nhưng tao chỉ biết tao đi theo sự thỏa thuận của Tào Tháo.Chúng mày là lũ tôm tép không được phép hỏi han và trảm vui 6 thằng.Tào Tháo thuy bị mất 6 tướng nhưng vẫn vui vẻ sai quân đuổi theo báo cho các ải lệnh thông đường.>> ông rất kiêu hãnh ngang ngược nhưng thật đáng quý mến.Người đời nhắc đến ông như một vị thiên tướng oai hùm cưỡi ngựa cầm Long Đao oai phong hiếm có,theo phò Lưu Bị lập bao chiến công,lấy đầu đại tướng Nhan Lương Văn Sú nhanh như ăn cắp.Cao ngạo nhưng rất mã thượng không nỡ giết Hoàng Trung khi bị xòe ngựa,sau này ông dùng thủy công nhấn chìm đại quân Vu Cấm bắt sống Bàng Đức.Chỉ duy nhất có tên Bang Đức là không coi Quan Vũ ra gì và ông cũng rất tiếc khi phải giết hắn vì hắn cũng ngạo mạn trung nghĩa như ông
Trong Tam Quốc có rất nhiều vị tướng trung thành tận tụy như Triệu Vân,của Lưu Bị.Hứa Chử Điển Vi,Hạ Hầu Đôn hay Bàng Đức của Tào Tháo.Chu Thái,Hoàng Cái... của Tôn Quyền.Họ cũng đều là những vị tướng thà chết không hàng,Nhưng xét về tông thể thì chữ Trung Nghĩa của Vân Trường vẫn tỏa sáng hơn cả.Mối thâm tình của 3 anh em họ rõ như trăng rằm người đời kính phục được chứng minh khi Quan Vũ bị Đông Ngô hành hình,Lưu Bị khóc ra máu,không màng hơn thiệt về đại cuộc nhất quyết khởi binh sang nghiền nát Đông Ngô mới phỉ lời nguyền năm xưa.Trương Phi thì thương anh đến phát điên dại mất hết trí khôn để rồi chuốc họa vào thân chết quá lãng xẹt.
Khi Quan Vũ nhận lệnh Khổng Minh đẫn quân đi bắt Tào Tháo và ông cứ nghĩ rằng khi gặp Tào Tháo ông có thể xuông tay bắt hắn trừ họa cho nhà Hán nhưng ông đã nhầm.Và quả thật đây là một điểm quan trọng để cho lý do ông được tôn thờ nhiều hơn cả.Khi đã chém tướng trả ơn Tào đãi mình quá hậu,khi đi còn treo lại vàn bạc ấn tín không lấy 1 cắc vậy mà giờ phút đói mặt kể thù lớn trong đại cuộc tả tơi nhem nhuốc khóc lóc van xin, một bậc trượng phu anh hùng cầm Long Đao cưỡi ngựa xích thố bỗng nao lòng thương cảm.Ông vốn là bậc anh hùng thiên hạ lẽ nào trước một kẻ thù tơi tả không còn sức đề kháng lại có thể ra tay???Kẻ sĩ chỉ lùi bước trước chữ Tình Nghĩa chứ không lùi bước trước đao kiếm bạo lực.Nhớ lại khi xưa mình là hàng tướng thất thế lại mang trọng trách bảo vệ 2 chị mà Tào Tháo đối đãi như VIP,tặng ngựa xích thố mở tiệc suốt ngày.Khi đi lại còn chém tướng của hắn mà hắn không hề trách cứ lại còn chạy theo tiễn đưa trong thương nhớ thì hỏi bậc anh hùng nào có thể ra tay chém kẻ đối xử với mình như vậy.Quan Vũ không thể không tha Tào Tháo.
Tướng mạo của Quan Vũ sinh thời đã như thần nhân :mặt đỏ như gấc mắt phượng mày ngài oai phong lẫm liệt.Có người còn thò ông khi ông còn sống thì hiểu tại sao chi ông mất lại không thờ. Ngày nay theo thống kê tìm hiểu rất nhiều tầng lớp tôn thờ Quan Vũ như tâng lớp làm ăn buôn bán bởi họ quan niệm ông cũng xuất phát tù giai cấp buôn bán kiếm sống.Tầng lớp xã hội đen cũng tôn thờ ông rất sùng bái bởi ông là hiện thân của nghĩa khí,tình huynh đệ vì nghĩa quên thân ,tiền bạc không mua chuộc nổi.Những người dân đen cũng thích thờ ông bởi ông là vị thần khảng khái bênh vực kẻ yếu trùng phạt bọn ác ôn như ông đã tưng làm khi xưa.Nhưng còn nghe nói những người làm nghề hành hình tội phạm hay những kẻ giết người,giới lưu manh đao búa cũng đặc biệt luôn coi ông là thánh bảo vệ mình khỏi bị các oan hồn hay tà ma hiện về báo oán.Điều này có thể hiểu khi Quan Vũ bị chém oan hồn bay quanh núi ngọc toàn mấy ngày chưa tan may nhờ có vị cao tăng Phổ Tĩnh khuyên bảo ông mới ngộ ra và siêu thoát.Ông đã từng hiện về báo ứng Lã Mông chết hộc máu>> Hồn vía của ông quá xung nhưng cũng siêu thoát nên họ quan niêm ông sẽ ngăn cản các oan hồn khác làm theo ông vì ông biết đó là sai.Và ông là người hiện về bảo vệ Quan Bình nên người dân sau này càng tín ngưỡng ông là vị thần linh rất thiêng.Sau dần dần càng nhiều người tôn thờ ông và đến bây giờ ông vẫn được thắp hương .

Sau khi bạn đọc xong thì có thể lược bỏ bớt các câu không cần thiết .

Bình luận (0)
Bình Trần Thị
4 tháng 5 2016 lúc 7:37

bạn có thể chỉ rõ ý chính của câu hỏi là ở câu nào ko . mình cảm ơn bn rất nhiều 

Bình luận (0)
Phạm Quỳnh Anh
Xem chi tiết
Vương Đình Cẩm Tuyết
Xem chi tiết
Ngọc Viền
16 tháng 5 2016 lúc 10:12

Là cảm xúc của tác giả trước cảnh sông Bạch Đằng

Sóng kình : sóng lớn

Đuôi trĩ : đuôi chim trĩ có hình dài như bánh lái thuyền . Ý tả những con thuyền nối đuôi nhau đi trên sông

Bình luận (0)
Thúy Hà
Xem chi tiết
Phan Thùy Linh
9 tháng 5 2016 lúc 16:43

“Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.”



“Lòng này” là sự thương nhớ khôn nguôi, vì đã trải qua nhiều đợi chờ .Gió đông là gió xuân.Trong cô đơn, người chinh phụ chỉ biết hỏi gió,nhờ gió đưa tin tới người chồng yêu thương nơi chiến địa xa xôi,nguy hiểm,nơi non Yên nghìn trùng.Non yên,một địa danh cách xa Thiểm Tây, Trung Quốc hơn hai ngàn dặm về phía bắc , nơi chiến trận đầy gian khổ .Hỏi gió,nhờ gió nhưng”có tiện”hay không?Đã thể hiện 1 thái độ nhún nhường , năn nỉ ngọn gió , mong gió hãy mang nỗi nhớ của nàng nói với người chồng ngoài biên cương .Sự cô đơn trong lòng nàngngày càng sâu thẵm.Làm sao tới được non Yên,nơi người chồng đang “nằm vùng cát trắng,ngủ cồn rêu xanh”?. Cùng với những từ ngữ trang trọng “gửi nghìn vàng , xin” đã giúp người đọc thấy được không gian , nỗi nhớ được mở ra thật mênh mông , vô tận , khắc sâu nỗi co đơn , hiu quạnh . Thế nhưng hiện thực thật phũ phàng , đau xót :

“Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời"

 

Việc sử dụng từ láy ‘thăm thẳm’ đã nói lên được nỗi nhớ da diết của người chinh phụ .Một nỗi nhớ thương đè nặng trong lòng,triền miên theo thời gian đêm ngày năm tháng “đằng đẵng” không thể nguôi ngoai ,vừa được cụ thể hóa bằng độ dài của không gian “đường lên bằng trời”. Có thể nói,dịch giả Đoàn Thị Điểm đã có một cách nói rất sâu sắc để cực tả nỗi nhớ thương chồng của người chinh phụ.Nỗi nhớ thương ấy,tiếng lòng thiết tha ấy lại được diễn tả qua âm điệu triền miên của vần thơ song thất lục bát với thủ pháp nghệ thuật liên hoàn-điệp ngữ.Cả một trời thương nhớ mênh mông.Nỗi buồn triền miên,dằng dặc vô tận .
Sau khi hỏi “gió đông”để bày tỏ niềm thương nỗi nhớ chồng , cuối cùng đọng lại trong nàng là nỗi đau , sự tủi thân:


“Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu ,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong"


Ý của câu như muốn nói lên sự xa cách nghìn trùng , với biển trời rộng lớn , xa “thăm thẳm” không hiểu cho “nỗi nhớ chàng”của người vợ trẻ.Nỗi nhớ “đau đáu” trong lòng.Đau đáu nghĩa là áy náy,lo lắng,day dứt khôn nguôi.Có thể nói qua cặp từ láy:”đằng đẵng” và “đau đáu”,dịch giả đã thành công trong việc miêu tả những thương nhớ, đau buồn,lo lắng của người chinh phụ một cách cụ thể,tinh tế,sống động.Tâm trạng ấy được miêu tả trong quá trình phát triển mang tính bi kịch đáng thương.Ở hai câu cuối,nhà thơ lấy ngoại cảnh để thể hiện tâm cảnh :


“Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.”



Giống như tâm sự Thúy Kiều trong Truyện Kiều: "Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu - Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?", người chinh phụ có lúc thấy cảnh vật vô hồn, thê lương nhưng có khi lại cảm nhận cả khoảng không gian và cảnh vật như đang hối thúc, giục giã, đổi thay, không tìm thấy đâu sự hô ứng, đồng cảm giữa tình người với thiên nhiên . Niềm thương nỗi nhớ cứ kéo dài từ ngày này sang ngày nọ . Nhìn cành cây ướt dẫm sương đêm mà lòng nàng lạnh lẽo . Nghe tiếng trùng kêu rả rich thâu canh như tiếng đẫm sương đêm mà thêm nhói lòng, buồn nhớ. Âm thanh ấy,cảnh sắc ấy vừa lạnh lẽo vừa buồn,càng khơi gợi trong lòng người vợ trẻ,cô đơn biết bao thương nhớ,lo lắng,buồn rầu.
Bằng những hình ảnh ẩn dụ cho nỗibuồn chất chứa , sự mòn héo của cảnh vật . 8 câu thơ cuối đã diễn tả nỗi nhớ da diết , nhớ tới thầm đau của người chinh phụ .Nỗi đau được chuyểntừ lòng người sang cảnh vật . Hàng loạt những hình ảnh ẩn dụ , từ ngữ gợi tả lại càng xoáy mạnh vào nỗi đau trong lòng người chinh phụ . Qua đó người đọc cũng cảm nhận được 1 cách sâu sắc niềm thương cảm , thấu hiểu của tác giả đối với nỗi đau của người phụ nữ có chồng ra trận .

 

Bình luận (0)
Hương Nguyễn
Xem chi tiết
nguyen minh phuong
12 tháng 5 2016 lúc 21:14

sự cảm thông của Nguyễn Du đối với khổ đau và khát vọng của con người.và sự tự ý cao về nhân cách.

Bình luận (0)
Bùi Thị Thu Hường
Xem chi tiết
Đặng Phan Khánh Huyền
11 tháng 5 2016 lúc 22:36

biện pháp tu từ: so sánh. nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm. cho câu thơ biểu cảm được nỗi buồn.

Bình luận (0)
Anh Mii
Xem chi tiết
Đinh Tuấn Việt
6 tháng 6 2016 lúc 21:53
 Lòng yêu nước trong tác phẩm "Bài thơ về tiểu đội xe không kínhPhạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm kháng chiến chống Mĩ. Bản thân là anh bộ đội Trường Sơn, tác giả cảm thông và hiểu rõ tâm tình người lính, nhất là người chiến sĩ vận tải dọc Trường Sơn chở vũ khí, quân trang từ hậu phương lớn ra tiền tuyến lớn. Cùng với thế hệ thanh niên hăng hái "Xẻ dọc trường sơn đi cứu nước / Mà lòng phơi phới dậy tương lai" Phạm Tiến Duật mang niềm vui hăm hở của tuổi trẻ ra chiến trường. Nhà thơ đã tạo cho mình một giọng điệu thơ rất lính : khỏe khoắn, tự nhiên, tràn đầy sức sống, tinh nghịch tươi vui mà giàu suy tưởng. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tác phẩm tiêu biểu nhất của giọng thơ ấy, của hồn thơ ấy.

Kết cấu của bài thơ là hành trình của con đường ra trận. Hành trình đó có những lúc dãi dầu nắng mưa, có những ngày vượt suối băng đèo và có tiếng reo cười trong tình thân chan hòa đồng đội, trong một mái ấm gia đình giữa đất trời bao la. Kết cấu đó trước hết thể hiện qua số lượng chữ trong câu :

Mở đầu chặng đường hành quân là những khó khăn. Vì vậy khổ 1, câu thơ đầu dài ra 10 chữ và kết thúc bằng thanh trắc - hoàn toàn trái quy luật phối thanh bình thường của thơ vần nhịp. Nó là điệu nói : 

Không có kính không phải vì xe không có kính

Ba câu tiếp theo, khó khăn dần rút lại, tạo nên sự ung dung phong thái đỉnh đạc với số lượng chữ rút dần xuống và đằm lại về thanh điệu : 8- 6- 6, bằng- bằng - trắc.

Hai câu thơ cuối khổ, thanh bằng chiếm tỉ lệ nhiều hơn, khoảng 2/3. Chính sự thắng thế của thanh bằng đã tạo nên sự thanh thản, ung dung cho khổ thơ mặc dù kết thúc của nó lại là thanh trắc. Chính thanh trắc này lại mở đường cho xe đi tới : Nhìn thẳng.

Năm khổ thơ tiếp theo, số lượng câu chữ trở lại bình thường, hoán đổi đều đặn ở hai kiểu kết hợp : 7- 8- 8- 7- và 7- 7- 8- 7 . Đường ra trận đẹp lắm, nên xe không kính cứ chạy bon bon, người lái xe đã nhìn thấy, nhìn thấy và thấy. Thấy gió xoa mắt đắng, thấy con đường chạy thẳng vào tim. Quan trọng nhất, thấy được nụ cười rạng rỡ của nhau. Ấy cũng chính là thấy được lòng dũng cảm tiềm ẩn đằng sau những câu đùa vui và hành động tếu táo : 

Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi

Khổ thơ có một sự thay đổi đặc biệt so với toàn bài ở số lượng chữ trong câu thơ : 8- 8- 8- 8. Bốn câu thơ 32 chữ chia đều nhau thanh điệu bằng trắc ở bốn chữ cuối và trở lại kiểu phối âm bình thường bằng- trắc- trắc- bằng. Câu kết của bài thơ mở rộng bằng thanh bằng :

Chỉ cần trong xe có một trái tim

Đây là câu thơ mấu chốt của cả khổ thơ và cả bài thơ. Hóa ra tất cả khó khăn thử thách ở phía trên kia chẳng là gì cả, dù cho bom rơi, pháo thả, dù xe không kính, dù đường ra mặt trận có khi đồng nghĩa với cái chết thì người lính lái xe ra trận cũng luôn cảm thấy bình yên, an toàn bởi vì có một trái tim. Đó là trái tim biết thức vì Miền Nam, biết khát khao chân lí, hòa bình. Hành trang ra trận cần biết bao một trái tim như thế. 

Bài thơ đã khắc họa đậm nét hình ảnh người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam : Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi. Bài thơ không chứa đựng một ẩn ý sâu xa nào khiến người đọc phải suy luận, nêu giả thiết hoặc là thế này hoặc là thế kia. Tạo dựng hình ảnh thơ bằng ngôn ngữ thô mộc của đời sống thường nhật, không sử dụng các loại mĩ từ, mĩ cảm, ẩn dụ, hình ảnh thơ thể hiện đạt tới độ chân thực cao mà vẫn rất thơ, đó là tài nghệ của Phạm Tiến Duật trong lao động sáng tạo. Bài thơ có đầy đủ yếu tố cách tân và hiện đại nhưng vẫn mang đậm bản sắc của thơ ca dân tộc, nối tiếp truyền thống của thơ ca cách mạng viết về anh bộ đội trong hai cuộc trường chinh cứu nước vĩ đại của dân tộc ở thế kỉ XX
Bình luận (0)
Đinh Tuấn Việt
6 tháng 6 2016 lúc 21:56

Xin lỗi, mình k đọc kĩ đề là có 2 tác phẩm, bài này chuẩn hơn nè leuleu

Chiến tranh đã đi qua hơn ba mươi năm. Thế nhưng, những ký ức về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thần thánh của dân tộc, ký ức về những con người anh hùng trong một thời đại anh hùng thì vẫn tươi mới, nguyên vẹn mỗi khi ta đối diện từng trang sách trong những tác phẩm văn học của thời kỳ này. 

Bằng cảm hứng lãng mạn, kết hợp với khuynh hướng sử thi, văn học Việt Nam trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước đã xây dựng trong văn thơ tượng đài những chiến sĩ anh hùng. Họ là những “Thạch Sanh của thế kỷ XX”. Chiến công của họ đẹp và phi thường như huyền thoại. 

Có hai tác phẩm được coi là tiêu biểu cho cảm hứng ngợi ca người chiến sĩ anh hùng của văn học thời kỳ này, đó là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật và “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê. Mỗi tác phẩm là một bức tranh đẹp về hình tượng người chiến sĩ điển hình cho thế hệ trẻ Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh quang vinh. 

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được nhà thơ Phạm Tiến Duật sáng tác năm 1969, rút từ tập thơ “Vầng trăng, quầng lửa” là một bài thơ độc đáo trong chùm thơ được giải nhất cuộc thi thơ Báo Văn nghệ năm 1969-1970. Bài thơ khắc họa vẻ đẹp người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn ác liệt. Vẻ đẹp độc đáo được thể hiện ngay trong tên gọi của bài thơ. Đó là sự thống nhất giữa hai sự vật tưởng như tương phản gợi ấn tượng về chất thơ lãng mạn và sự trần trụi khốc liệt. 

Khai thác đề tài chiến tranh, tác giả không chỉ tô đậm tính chất ác liệt, tàn khốc nhằm làm nổi bật sự phi thường của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam mà Phạm Tiến Duật đã có cách nhìn, cách cảm khá mới lạ và thú vị. Từ trong sự tàn khốc ấy, chất thơ vẫn cứ tuôn trào ! 
Câu thơ mở đầu như một lời tự sự xen lẫn miêu tả: 

Không có kính không phải vì xe không có kính 
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi

Nó có tác dụng vừa lý giải sự bất thường của hình ảnh chiếc xe độc đáo “không có kính” vừa tô đậm sự ác liệt của chiến trường “bom giật, bom rung...” Đây là hình ảnh vừa lạ vừa chân thực. Lạ là vì trong thơ, người ta thường chọn những sự vật hoàn thiện, hoàn mỹ để miêu tả nhằm tạo thiện cảm với người cảm nhận nó. Với những chiếc xe cũng vậy! Phải sang trọng, bóng loáng chứ sao lại trần trụi, méo mó, biến dạng thế này ! 

Không có kính rồi xe không có đèn, 
Không có mui xe, thùng xe có xước

Nhưng đấy là sự thật. Không phải một chiếc như thế mà tác giả nhìn thấy cả một tiểu đội xe như thế! Bởi vì thời điểm mà bài thơ ra đời có thể nói là ác liệt nhất trong thập niên 60 của thế kỷ XX. 

Đường Trường Sơn - nơi vận chuyển vũ khí lương thực vào chi viện Miền Nam - những năm tháng này là “túi bom, chảo lửa”. Và trên nền hiện thực tàn khốc ấy đã xuất hiện hình ảnh đẹp đẽ, phi thường của người chiến sĩ lái xe. Làm chủ những phương tiện ấy, người chiến sĩ không hề nản chí hay run sợ mà trái lại, lại bình tĩnh đến lạ thường: 

Ung dung buồng lái ta ngồi 
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Vẻ đẹp kiêu hùng được toát ra từ tư thế ngồi “ung dung” đến cái nhìn “nhìn thẳng”. Các từ láy “ung dung” cùng với nhịp thơ nhanh, đều, dứt khoát 2/2/2 diễn tả vẻ đẹp khoan thai, thản nhiên, tự tin của người chiến sĩ. Điệp từ “nhìn” gợi lên sự nối tiếp liên tục của những hình ảnh chiến trường như một đoạn phim đang quay chậm: 

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng 
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim 
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim 
Như sa như ùa vào buồng lái

Các thủ pháp nhân hóa, so sánh, ẩn dụ đã góp phần làm cho hình ảnh thơ thêm sinh động. Tưởng rằng làm chủ những chiếc xe không kính, người chiến sĩ chỉ thấy những khó khăn chồng chất khó khăn. Nhưng không! Nó đã làm tăng những cảm giác mới mẻ mà chỉ có người chiến sĩ khi ngồi trên những chiếc xe như thế mới cảm nhận được một cách rõ ràng, mãnh liệt... Hình ảnh “gió vào xoa mắt đắng”, “con đường chạy thẳng vào tim” tạo ấn tượng độc đáo. Chiếc xe như đang trôi bồng bềnh trong thiên nhiên hoang dã của núi rừng Trường Sơn hùng vĩ. Chất thơ cùng với vẻ đẹp lãng mạn toát lên từ đó. Nhưng có thể nói đẹp nhất là thái độ, tinh thần dũng cảm bất chấp gian khổ để chiến đấu và chiến thắng: 

Không có kính, ừ thì có bụi, 
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc 
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. 

Vẻ đẹp được toát lên từ lời thơ giản dị, giàu “chất lính”, hình ảnh thơ mộc mạc. Điệp ngữ “ừ thì”, “chưa cần” vang lên như một lời thách thức, chủ động chấp nhận gian khổ. Một giọng thơ tự tin, ngang tàng. Một tiếng cười “ha ha” hồn nhiên. Tất cả đã toát lên vẻ đẹp của người chiến sĩ lái xe. 

Đời sống chiến trường gian khổ là thế. Sự sống và cái chết ở đây chỉ là gang tấc. Thế nhưng tình yêu thương đồng chí, đồng đội vẫn tỏa sáng lạ thường. 

Những chiếc xe từ trong bom rơi 
Đã về đây họp thành tiểu đội 
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới 
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. 

Có thể nói rằng, khai thác chất liệu nghệ thuật của đời sống chiến tranh, Phạm Tiến Duật đã rất thành công trong việc khắc họa người chiến sĩ lái xe Trường Sơn bằng những hình ảnh, chi tiết vừa chân thực, gân guốc, mộc mạc vừa lãng mạn nên thơ. 

“Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước: 
Chỉ cần trong xe có một trái tim”.

“Trái tim” ở đây chính là trái tim chứa chan tình yêu Tổ quốc đã giúp người chiến sĩ lái xe làm nên những kỳ tích phi thường. Vẻ đẹp hào hùng của họ tỏa sáng cả bài thơ; đủ làm sống lại trong lòng chúng ta một thời oanh liệt của anh bộ đội cụ Hồ. Chất anh hùng ca dào dạt tạo nên vẻ đẹp của người chiến sĩ cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. 

Cùng với chủ đề ngợi ca vẻ đẹp người chiến sĩ, nhưng khác với nhà thơ Phạm Tiến Duật trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, nhà văn Lê Minh Khuê trong “Những ngôi sao xa xôi” đã đi tìm và khai thác vẻ đẹp ấy qua hình ảnh của những cô gái thanh niên xung phong. 

Truyện viết về cuộc sống và chiến đấu vô cùng gian khổ của những nữ thanh niên xung phong - những cô gái “Ba sẵn sàng” trên tuyến đường Trường Sơn chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc. Mặc dù cốt truyện đơn giản, nhưng tác giả đã rất thành công trong việc khắc họa vẻ đẹp người nữ chiến sĩ qua miêu tả tâm lý nhân vật sắc sảo và tinh tế. 

Nổi bật trong truyện là ba gương mặt đẹp của tổ trinh sát mặt đường. Họ có những nét tính cách chung của người nữ thanh niên xung phong Trường Sơn thời chống Mỹ nhưng ở mỗi nhân vật lại lấp lánh vẻ đẹp riêng. Hoàn cảnh sống và chiến đấu nơi tuyến lửa đã gắn bó họ thành một khối đoàn kết, yêu thương, gan dạ và dũng cảm.

Họ đóng quân trong một cái hang giữa trọng điểm “túi bom, chảo lửa” trên tuyến đường Trường Sơn. Công việc hàng ngày của họ là đếm bom, rồi lao ra trọng điểm sau những trận bom để đo khối lượng đất đá cần phải san lấp, đánh dấu vị trí bom rơi và phá những quả bom chưa nổ. Một khối lượng công việc vừa đồ sộ vừa nguy hiểm. Cái chết rình rập họ từng phút, từng giờ. “Có ở đâu như thế này không: đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay đang âm ỉ xa dần, thần kinh căng như chảo, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn biết rằng chung quanh còn nhiều quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ...”. Họ làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, dù chỉ có ba người (lại là ba phụ nữ); họ phân công nhau phá bằng hết những quả bom chưa nổ mà không cần đến sự trợ giúp của đơn vị “như mọi lần chúng tôi sẽ giải quyết hết”. 

Trong chiến đấu họ gan dạ, dũng cảm, quyết đoán là thế, nhưng trong cuộc sống họ là những cô gái trẻ trung, yêu đời, dễ rung cảm, lắm ước mơ. Là phụ nữ, họ rất thích cái đẹp và thích làm đẹp cho cuộc sống. 

Nếu như nhân vật Nho “mát mẻ như một que kem trắng”, thích ăn kẹo như một đứa trẻ, giàu mơ ước (Nho ước mơ trở thành công nhân nhà máy điện và trở thành cầu thủ bóng chuyền của nhà máy) thì nhân vật chị Thao lại dạn dày, từng trải trong cuộc sống; thích thêu thùa; thích làm đẹp “tỉa đôi lông mày của mình, tỉa nhỏ như cái tăm” nhưng trong công việc thì “ai cũng gờm chị: cương quyết, táo bạo” (dũng cảm, táo bạo nhưng lại sợ nhìn thấy máu chảy). 

Còn Phương Định, nhân vật chính của truyện là con người hồn nhiên, nhạy cảm, lãng mạn và mơ mộng. Là con gái Thủ đô, cô thường sống với kỷ niệm quê hương. Nơi ấy có một thời học sinh trong trắng, hồn nhiên, vô tư. Nơi ấy có mẹ, có căn gác nhỏ của cô... Những kỷ niệm yêu dấu ấy là liều thuốc tinh thần quý giá động viên cô, tiếp thêm sức mạnh để cô sống đẹp và chiến đấu anh dũng nơi tuyến lửa. 

Ở chiến trường, Phương Định luôn dành cho đồng đội tình yêu thương thắm thiết. Cô yêu quý đồng đội trong “tổ trinh sát mặt đường” của cô và cảm phục các anh bộ đội “những người mặc quân phục có ngôi sao trên mũ”. Trong mắt cô, đó là những “người đẹp nhất, thông minh nhất”. Phương Định rất nhạy cảm. Cô biết mình có “cái nhìn sao mà xa xăm” như lời các anh lái xe nhận xét nhưng cô lại không biểu lộ tình cảm và thích kín đáo giữa đám đông. Cô thích nhạc và mê ca hát. Thậm chí tự đặt lời theo một điệu nhạc nào đó và hát để thấy mình rất buồn cười v.v... Thế nhưng với Phương Định, sự nhạy cảm về tâm hồn có lẽ được biểu hiện tinh tế nhất ở chỗ, chỉ một cơn mưa đá bất ngờ vụt qua trên cao điểm, cũng đủ đánh thức trong cô những ký ức về quê hương, gia đình, khơi dậy trong cô khát khao sum họp đến cháy bỏng. 

Một cô gái Hà Nội chính gốc, lãng mạn và mơ mộng như thế, nhưng trong chiến đấu lại dũng cảm, gan dạ đến tuyệt vời. Một mình phá bom trên đồi “quang cảnh vắng lặng đến dễ sợ” nhưng tinh thần cô không hề nao núng. Đáng lẽ cô phải “đi khom” nhưng sợ mấy anh chiến sĩ “có cái ống nhòm có thể thu cả trái đất vào tầm mắt” nhìn thấy, nên cô “cứ đàng hoàng mà bước tới”. 

Khi ở bên quả bom, tử thần có thể cướp đi mạng sống của cô bất cứ lúc nào, nhưng cô vẫn bình tĩnh thao tác một cách chính xác và chạy đua với thời gian để vượt qua cái chết. 

“Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động đến gai người, cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành”. Những cảm giác tinh tế ấy không chỉ là sự nhạy cảm mà còn là kinh nghiệm của sau bao nhiêu lần phá bom ở tuyến lửa và chỉ những người nữ thanh niên xung phong dạn dày như Phương Định, Nho, chị Thao mới có được ! 

Với tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi”, ngòi bút của Lê Minh Khuê đã miêu tả sinh động, chân thực tâm lý nhân vật; làm hiện lên một thế giới nội tâm rất phong phú nhưng không phức tạp, rất đời thường, giản dị nhưng vô cùng trong sáng và cao thượng của những nữ thanh niên xung phong. 

Vẻ đẹp của những “cô gái mở đường” Trường Sơn cùng với vẻ đẹp của người chiến sĩ lái xe trong các tác phẩm văn học chống Mỹ nói chung và trong các tác phẩm của Phạm Tiến Duật và Lê Minh Khuê nói riêng đã giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về ý chí, tâm hồn và nhân cách của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Bình luận (0)
Đặng Thị Cẩm Tú
6 tháng 8 2016 lúc 16:49

lolang???

Bình luận (0)