Ôn tập ngữ văn 12

Nguyễn Đình Hồng
Xem chi tiết
tiểu thư họ nguyễn
22 tháng 2 2016 lúc 10:50

I.    Đọc hiểu chung
1.    Tác giả

–    Nguyễn tuân là một người tri thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc
–    Nguyễn Tuân là một nhà văn uyên bác tài hoa
–    Nguyễn Tuân là người có cá tính mạnh mẽ và phóng khoáng, ông không thích những cái gì bằng phẳng nhợt nhạt, nhà văn luôn hứng thú với những biểu hiện mạnh mẽ phi thường của tạo vật và con người
2.    Tác phẩm
–    Người lái đò sông Đà là một áng văn trong tùy bút sông Đà (1960)
–    Tác phẩm là thành quả của nhà văn trong chuyến ông đi tới Tây Bắc tìm kiếm chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây bắc đặc biệt là chất vàng mười đã qua thử lửa ở tâm hồn con người lao động chiến đấu trên miền sông núi Tây Bắc hùng vĩ và thơ mộng
–    Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn sau cách mạng tháng Tám
II.    Đọc hiểu chi tiết
1.    Hình tượng con sông Đà

–    Con sông Đà được nhân hóa như con người và mang hai nét tính cách cơ bản: hung bạo và trữ tình
–    Hung bạo:
•    Cảnh đá ở bờ sông: đá dựng vách thành lòng sông hẹp, có quãng con hươi con nai còn nhảy vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia, nhìn từ dưới lên như nhìn lên cái tòa nhà cao vừa tắt phụt đèn điện
•    Mặt ghềnh Hát loong: dài hàng ngàn cây số, “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như đòi nợ suýt bất cứ ai đi qua quãng ấy
•    Cái hút nước giống như cái giếng bê tông, nước thở và kêu như cái cống cái bị sặc, tưởng tượng một anh quay phim táo bạo ngồi thuyền thúng mà cầm máy quay cùng chìm xuống cái xoáy ấy
•    Thác nước: tiếng nước gần mãi réo lên, lúc thì gầm réo oán trách van xin, khiêu khích, lúc thì nghe như đàn trâu mộng “…nổ lửa”  nghệ thuật lấy lửa tả nước
•    Đá ở lòng sông: như bày thạch trận
–    Thơ mộng: di hết thượng nguồn đến hạ nguồn ta bắt gặp cảnh đẹp này
•    Hình dáng: “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc… xuân”  đẹp như một người thiếu nữ
•    Màu nước sông Đà: thay đổi theo mùa: mùa xuân màu xanh ngọc bích, mùa thu lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, chưa bao giờ nước sông Đà màu đen cả  đẹp độc đáo
•    Sông Đà gợi cảm:
+ cố nhân
+ con sông còn gợi lên những niềm thơ 
•    Cảnh hai bờ sông giống như một bờ tiền sử, cổ tích  thơ mộng trữ tình và thanh vắng
->    Tóm lại bằng tài năng uyên bác của mình Nguyễn tuân đã đưa người đọc đến với sông Đà cảm nhận được hai nét tính cách hung bạo và trữ tình của dòng sông. Hai nét tính cách đối lập nhưng lại thống nhất bổ sung cho nhau vì thế con sông Đà dưới trang viết của Nguyễn Tuân được xem như là một công trình nghệ thuật, một kì công của tạo hóa đã ban cho Tây Bắc
2.    Hình tượng người lái đò
–    Nguyễn Tuân nói về người lái đò là một tay lái ra hoa
–    Ngoại hình: có ngoại hình độc đáo “tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh khuỳnh”
–    Vẻ đẹp được thể hiện qua những lần vượt thác
•    Ông phải vượt qua 3 vòng thạch trận với vòng một có 5 cửa thì 4 cửa tử một cửa sinh lập lờ bên tả ngạn. Ông phải dùng hai chân kẹp chặt cuống lái, mặt méo bệch đi nhưng vẫn tỉnh táo chỉ huy để con thuyền vào cửa sinh.

Bình luận (0)
Lê Văn Quốc Huy
Xem chi tiết
Bùi Hà Chi
22 tháng 2 2016 lúc 15:06

Đề bài: Soạn bài ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường
I.    Tìm hiểu chung
1.    Tác giả
a.    Cuộc đời

–    Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937
–    Ông sinh ra tại Huế vì thế ông gắn bó sâu sắc với Huế
–    Là người có hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực đặc biệt nhất là sử học, địa lý văn hóa ở Huế
b.    Sự nghiệp
–    Ông viết rất nhiều tác phẩm: Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu, rất nhiều ánh lửa, ai đã đặt tên cho dòng sông…
–    Phong cách nghệ thuật: Có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình với những liên tưởng mạnh mẽ và một lối hành văn mê đắm tài hoa
2.    Tác phẩm
a.    Hoàn cảnh sáng tác

–    Tác phẩm là bài kí xuất sắc của Hoàng Phủ ngọc Tường được viết tại Huế, vào ngày 4-1-1981, sau đó in trong tập sách cùng tên
b.    Bố cục: 3 phần
–    Đoạn trích nằm ở phần 1, và tóm tắt phần 2,3
–    Bố cục đoạn trích: 2 phần
•    Phần 1; từ đầu đến quê hương xử sở: thủy trình của sông Hương
•    Phần 2: còn lại: dòng sông của lịch sử thơ ca
II.    Phân tích
1.    Thủy trình của Hương Giang
a.    Sông Hương ở vùng thượng lưu

–    Sông Hương nằm vùng thượng lưu mang một vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt như bản trường ca của rừng già, hoang dại bí ẩn nhưng cũng có lúc dịu dàng đằm thắm
•    Sông Hương như bản trường ca của rừng già
•    Vẻ đẹp dịu dàng say đắm với những sắc màu rực rỡ
->    Nghệ thuật so sánh kết hợp với những câu văn dài, thủ pháp điệp cấu trúc kết hợp với động từ mạnh tạo nên âm hưởng mạnh mẽ
•    Vẻ hoang dại : sông  Hương giống như một cô gái Di gan phóng khoáng và man dại
•    Sông Hương như một bà mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở
->    Ngay từ đầu bài văn tác giả đã như khoe ra cái bút pháp tài hoa của mình.nhà văn tạo ra những liên tưởng lý thú xác đáng, ngôn từ gợi cảm. Tất cả tạo nên sự hấp dẫn về một con sông mang linh hồn của sự sống
b.    Sông hương ở ngoại vi thành phố Huế
–    Dưới ngòi bút của HPNT sông Hương như một cô gái đẹp nằm mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, nàng ngủ mơ màng mong người tình đến đánh thức
•    Với kiến thức địa lý tác giả đã miêu tả tỉ mỉ về sông Hương chuyển dòng một cách liên tục uốn mình với những đường cong thật mềm mại
•    Sông nước sông Hương thay đổi theo ngày: sớm xanh trưa vàng chiều tím
•    Hình dáng như tấm lụa mềm mại trên cơ thể người thiếu nữ
->    Sông Hương hiện lên nét trầm mặc cổ kính như triết lý cổ thi. Vận dụng kiến thức về văn hóa văn học tác giả đã tạo cho người đọc vẻ đẹp trầm mặc như triết lý cổ thi “Đi giữa sông Hương cũng chuyển mình ngày đêm bên những lăng tẩm, thành quách của vua chúa thời Nguyễn. Con sống hiền hòa ở ngoại vi thành phố Huế như nép mình bên giấc ngủ nghìn thu của vua chúa

soan bai ai da dat ten cho dong song cua hoang phu ngoc tuong

c.    Sông Hương chảy vào thành phố Huế
–    Cuối cùng sông Hương đã đến được với thành phố của mình, con sông mang một vẻ đẹp độc đáo
–    Sông Hương như một điệu slow tình cảm của Huế
–    Lưu tốc của con sông khác hẳn với dòng sông khác. Phải chăng vì quá yêu thành phố của mình, con sông Hương muốn nhìn ngắm thành phố của mình lâu hơn trước khi rời xa nó. Đó là tình cảm của dòng sông hương với Huế hay chính la tình cảm đăc biệt mà HPNT dành cho sông Hương và xứ huế
–    Sông Hương như người tài nữ đánh đàn trong đêm khuya. Viết về sông Hương giữa lòng thành phố Huế tác giả không quên những nét đẹp văn hóa gắn liền với dòng sông thơ mộng. ở góc độ âm nhạc tác giả gọi sông Hương là người tài nữ đánh đàn
–    Sông Hương được ví như người tình dịu dàng và thủy chung
2.    Dòng sông của lịch sử, thơ ca, cuộc đời
–    Lịch sử: sông Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu bao chiến công oanh liệt của dân tộc
–    Cuộc đời: sông Hương mang vẻ đẹp dịu dàng, giản dị của một cô gái
–    Thi ca: trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ nhà văn
3.    Nhan đề 
–    Bài kí kết thúc bằng cách lý giải về tên của dòng sông qua một câu hỏi đầy trăn trở. Nhà văn đã chọn một cách lý giải ấn tượng đầy chất trữ tình bằng một huyền thoại
–    Mượn huyền thoại này để giải thích câu hỏi của nhan đề. Qua đó nhà văn muốn khẳng định phẩm chất đẹp đẽ của sông Hương
III.    Tổng kết
–    Bài kí là kết tinh vẻ đẹp của dòng sông Hương, nó vừa mang vẻ mãnh liệt dữ dội lại vừa mang vẻ đàm thắm kiêu sa, mơ màng như một người con gái đẹp.
–    Nhà văn hấp dẫn người đọc bằng bút pháp tài hoa trữ tình của mình. có thể nói nhà văn đã tạo nên một trang văn đẹp về dòng sông Hương

Bình luận (0)
Pro Hùng Anh
Xem chi tiết
Đinh Tuấn Việt
25 tháng 2 2016 lúc 21:28

I/ Tìm hiểu chung:
1.Tác giả : Quang Dũng (1921-1988)
- Tên thật là Bùi Đình Diệm.
- Quê quán Phượng Trì, Đan Phương, Hà Tây.
- Cuộc đời: Từng gia nhập quân đội, làm thơ, viết văn, biên tập viên nhà xuất bản
- Con người : Là một nghệ sĩ đa tài “ Cầm, kì, thi, hoạ”, nhưng trước hết là một nhà thơ.
- Phong cách thơ: Hồn hậu, phóng khoáng, hào hoa, lãng mạn.
2. Bài thơ Tây Tiến:
a) Hoàn cảnh ra đời:
* Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện sâu sắc phong cách thơ QD, in trong tập thơ “Mây đầu ô”(1986).
b) Bố cục bài thơ
+ Đoạn 1: Nhớ về những cuộc hành quân của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây.
+ Đoạn 2: Nhớ những kỉ niệm đẹp (Đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng)
+ Đoạn 3: Nhớ về những người đồng đội Tây Tiến.
+ Đoạn 4:Lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây.
II/ Đọc hiểu bài thơ:
1. Đoạn 1 : Nỗi nhớ về những chặng đường hành quân của bộ đội Tây Tiến và khung cảnh núi rừng miền Tây.
- Hai câu thơ mở đầu:
“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi...”
=> Hình ảnh “Sông Mã” như gợi thức nỗi nhớ ùa về trong tâm hồn nhà thơ.
=> Nhớ “Chơi vơi” ( 2 thanh bằng, nhẹ, lan toả, không hình không khối.
Hồn thơ Quang Dũng như đang bơi trong một biển nhớ bát ngát mênh mông, không bờ, không bến, tràn ngập, chơi vơi...Câu thơ như khơi dòng cho nguồn thác kí ức hiện về.
- Bức tranh thiên nhiên miền Tây Vừa hùng vĩ, hiểm trở , hoang vu, nghiệt ngã vừa độc đáo thú vị:
+ Hùng vĩ, hiểm trở (Mở ra trong nhiều chiều không gian, thời gian)
> Nhiều tên đất lạ lẫm, gợi 1 vùng xa xôi, hẻo lánh: Sông Mã, Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Pha Luông, Mai Châu...
>Nhiều đèo dốc hiểm trở:
“ Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi...”
=> Sử dụng từ láy giàu chất tạo hình, gợi tả, gợi cảm, những câu thơ toàn thanh trắc ...=> Một bức tranh hoành tráng với tất cả sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng miền Tây
+ Nhiều vẻ hoang dại, bí ẩn, khắc nghiêt: Với mưa rừng, “Sương lấp đoàn quân mỏi”, “Thác gầm thét”, “Cọp trêu người.”
- Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến trong đoạn thơ :
+ Đó là những chiến sĩ anh hùng bất khuất không quản ngại vượt qua bao chặng đường gian khổ , bao nhiêu hi sinh mất mát lớn lao:
" Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời...”
=> Nổi bật chất bi tráng
+ Nhưng đó còn là những chàng trai hào hoa lãng mạn tinh nghịch với bao hăm hở khám phả, chinh phục.
- Hai câu kết đoạn thơ : “ Nhớ ôi...nếp xôi”=> Gợi không khí đầm ấm tình quân dân, như xua đi bao mệt mỏi của cuộc hành trình,tạo cảm giác êm dịu, ấm áp, chuẩn bị tâm thế cho đoạn sau
2. Đoạn 2: Nhớ về những kỉ niệm đẹp - một vùng kí ức mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình
+ Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ: Những chàng trai Tây Tiến cùng những cô gái miền Tây như hoà quyên trong một không gian lãng mạn với
> Đường nét uyển chuyển, man dại
> Không khí sôi nổi, tình tứ
> Âm thanh sắc màu hoà quyện ...
=>Cảnh vật và con người như hoà trong men say, tình tứ, ngây ngất, rạo rực.
+ Cảnh sông nước miền Tây hoang sơ, mênh mang huyền ảo: “Người đi Châu Mộc...Hoa đong đưa”
> Không gian dòng sông trong một buổi chiều sương huyền ảo, thơ mộng vừa hoang dại như một bờ tiền sử-> Gợi sắc màu cổ tích huyền thoại.
> Nổi bật lên trên nền không gian ấy là dáng hình mềm mại uyển chuyển của cô gái miền Tây trên chiếc thuyền độc mộc.
=> Thiên nhiên hoang sơ nhưng vẫn rất gần gũi gợi bao cảm xúc sâu lắng.
3. Đoạn 3: Chân dung người lính Tây Tiến.
+ Chân dung : (Gương mặt chung của những người lính TT qua kí ức của QD)
- Ngoại hình : Toát lên vẻ oai phong, dữ dằn qua cái nhìn lãng mạn của QD
- Tâm hồn: lãng mạn, mơ mộng, khát khao yêu đương
+ Sự hi sinh mất mát:
-Từ Hán Việt: Biên cương, viễn xứ, độc hành...-> Gợi âm hưởng cổ kính, trang trọng.
- Hình ảnh về sự hi sinh lặp lại ở khổ1, nhưng được nâng lên tầm khái quát mang tầm vóc sử thi, thần thoại
- Sự thật bi thảm được làm mờ bằng những câu thơ gợi hình ảnh những tráng sĩ ngày xưa ra đi vì nghĩa lớn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng
=> Bút pháp hiện thực kết hợp lãng mạn, toát lên vẻ đẹp hào hùng và hào hoa , đậm chất bi trángcủa người lính TT
4. Đoạn kết: Lời thề sắt son
- “Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy ...”=>thời điểm mơ mộng hào hùng một đi không trở lại.
- Câu kết ” Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” thể hiện tinh thần “ một đi không trở lại” => Gợi không khí một thời đại ra đi kháng chiến “thà chết chớ lui” của tuổi trẻ VN trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
III/ Chủ đề :
Qua bài thơ, tác giả Quang Dũng :
- Ca ngợi vẻ đẹp của người lính Tây Tiến, cũng là vẻ đẹp của những người lính trong kháng chiến chống Pháp.
- Thể hiện tình cảm sâu nặng của nhà thơ với đơn vị Tây Tiến, với cảnh vật và con người miền Tây một thời gắn bó

Bình luận (0)
Hoàng Tiến Đạt
26 tháng 2 2016 lúc 12:32

oho

Bình luận (0)
mega RUKARIO
26 tháng 2 2016 lúc 19:28

bucqua

Bình luận (0)
Pro Hùng Anh
Xem chi tiết
Đinh Tuấn Việt
25 tháng 2 2016 lúc 21:29

Soạn bài thuốc của Lỗ Tấn Câu 1.  a. Mua bánh: Buổi sáng mùa thu, lão Hoa Thuyên cầm nắm bạc dành dụm đi mua thuốc. • Ngã ba Cổ… Đình Khẩu: không gian pháp trường, thời gian trước bình minh – khoảng năm giờ sáng. Những chi tiết được miêu tả: - Trời còn tối và lạnh. Mọi người còn ngủ say! - Những người đi trên đường ánh mắt cú vọ ngời lên như người đói lâu ngày. - Bao nhiêu người kì dị, đi lại như bóng ma. - Tiếng bước chân, tiếng xô đẩy ào ào vì nhiều người tranh mua bánh. - > Khung cảnh âm thầm ma quái rung rợn, giống như chuẩn bị ăn thịt người. - Một người quần áo đen ngòm, mắt sắc như lưỡi dao -> hình ảnh đao phủ quái đản, có dáng dấp thần chết. - Tay hắn cầm chiếc bánh bao nhuốm máu đỏ tươi, máu còn nhỏ từng giọt, từng giọt. Lão Hoa Thuyên sợ, không dám cầm -> tên đao phủ trao chiếc bánh là trao cái chết nhưng lão Hoa Thuyên nhận nó đầy mừng rỡ và hi vọng. - > Cách xử tử và cảnh người đi mua bánh là một không gian mê muội thứ nhất. - Cuối cùng cũng mua được bánh - > lão Hoa Thuyên sung sướng tin tưởng. a. Ăn bánh - Bánh nướng lên trong quán trà với mùa thơm quái đản. - Hoa Thuyên ăn bánh theo quán tính. - > Hoa Thuyên là bệnh nhân sinh lí. - > Ông bà Hoa Thuyên thương con, nhưng quá mê muội. Họ đang bị bệnh tinh thần, u mê về khoa học, bệnh mê tín dị đoạn. Căn bệnh thâm canh cố đế, kết đọng từ sự ngu muội truyền kiếp. Sơ kết: cả gia đình đang bị bệnh. Họ đang ăn thịt, uống máu đồng loại mà không biết nên vừa đáng tôi, vừa đáng thương. b. Bánh bao tẩm máu Hạ Du – người bị hành hình lúc tờ mờ sáng. Hạ Du là ai? Câu 2. Hình tượng Hạ Du. - Khi ngồi tù, Hạ Du kiên trì tuyên truyền: thiên hạ nhà Mãn Thanh chính là của chúng ta - > Đây là người chiến sĩ cách mạng có lập trường kiên định, lí tưởng chiến đấu rõ ràng, vì nhân dân Trung Hoa nghèo khổ. Tâm hồn chiến sĩ ấy thật cao cả. - Ra pháp trường, Hạ Du bị biến thành trò “thị chúng” tầm thường vô nghĩa, sự hi sinh cao thưởng của Hạ Du bị biến thành trò cười, để nhiều người hưởng lợi. Thật đau xót và mỉa mai. - Dư luận của quần chúng trước cái chết của Hạ Du: + Là tên tội phạm không biết con nhà ai. + Thằng quỷ sứ, thằng nhãi con, thằng khốn nạn, thằng giặc. + Thằng điên (phép điệp có ý nghĩa nhấn mạnh) - > Dân chúng ngơ ngác, không ai hiểu Hạ Du, họ chỉ biết lí giải là Hạ Du điên. Họ cũng tin tưởng rằng, thằng Thuyên ăn bánh sẽ lành bệnh. Quán trà là không gian mê muội thứ hai. - Gia đình Hạ Du + Cụ Ba bán đứng đứa cháu, được hai mươi lạng bạc trắng xóa. Mọi người trong quán đề khen cụ Ba khôn. + Người mẹ thăm mộ con thì xấu hổ. - > Người thân trong nhà không ai hiểu Hạ Du. = > Bi kịch của Hạ Du (Hạ Du >< đại chúng) Hạ Du chiến đấu cho quần chúng nhưng quần chúng xem Hạ Du là giặc. Nhân dân đáng thương còn Hạ Du thì đáng trách. Hạ Du là người chiến sĩ cô đơn, một người giác ngộ sớm, là người hùng thức dậy trước bình minh. Anh trở thành hình tượng điên nên không ai thấu hiểu. Từ đó tác giả vạch ra căn bệnh mê muội không hiểu cách mạng của quần chúng, căn bệnh xa rời quần chúng của những người cách mạng như Hạ Du. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Hạ Du bằng bút pháp “hư tả” – nhân vật xuất hiện thông qua nhân vật khác. Câu 3. Quan hệ giữa cái chết và nội dung ý nghĩa toát ra từ nghệ thuật chơi chữ của nhà văn. - Hoa Thuyên chết vì bệnh nan y và sự lạc hậu về khoa học. - Hạ Du chết vì bệnh tinh thần mù quáng của nhân dân. - > Lời cảnh tỉnh về những căn bệnh của xã hội Trung Hoa đương thời. - Thuyên nghĩa là lành bệnh nhưng lại chết. - Du là ngọc đẹp, ngọc quý nhưng lại bị chôn vùi. - > Sự vô lí do đâu? Vì những căn bệnh mê muội trên. - Hoa Thuyền là Hoa lành - Hạ Du là Hạ Quý - > Những đứa con trai duy nhất của hai gia đình Hoa – Hạ, là tương là hi vọng của gia đình và đất nước Trung Hoa nhưng vì bệnh tật mà chỉ còn lại nấm mồ. Hoa – Hạ là tên gọi của đất nước Trung Hoa thời cổ (người Trung hoa tự hào mình là người Hoa Hạ) vậy thì hai cái chết ấy cho thấy Trung Hoa sẽ mất hết tương lai. Đó là lời cảnh tỉnh, một tiếng kêu cứu. Mùa thu có hai cái chết như hai hạt ngọc bị sự ngu muội chôn vùi để mùa đông cùng thao thức chuẩn bị cho một mùa xuân nối kết vòng hoa đồng cảm hiểu biết, để cùng hi vọng một tương lai cách mạng tươi sáng. Cách viết, nghệ thuật thể hiện ngắn gọn, hàm súc, trí tuệ sâu sắc. Câu 4. Cảnh viếng mộ của hai người mẹ vào mùa xuân năm sau. - Nghĩa địa ngoại thành phía Tây chi làm hai phần bởi con đường mòn nhỏ hẹp, cong queo. + Bên phải, chôn người chết đúng lẽ phải, có một Hoa Thuyên. + Bên trái, chôn người chết do sai trái, có mộ Hạ Du. - > So với mùa thu trước, xã hội Trung Quốc còn phẳng lặng chưa có thay đổi gì, quần chúng chưa biết làm cách mạng. - Mộ khít dày như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ, lại bánh bao, sẽ còn nhiều người chết vì bánh bao – nghĩa là vì ngu muội, để vun đắp cho hạnh phúc cho bọn nhà giàu (phép chiếu ứng nội tại trong nghệ thuật kết cấu của văn chương Trung Hoa). Bọn nhà giàu (như lão Nghĩa mắt cá chép) sẽ được hưởng lợi bởi sự ngu dốt của người nghèo. - Hình tượng con đường xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm của Lỗ Tấn. Nó trở thành hình tượng ẩn dụ thể hiện mối quan tâm đặc biệt của nhà văn về vận mệnh của quốc gia. Trong tác phẩm này, nó mang nhiều ý nghĩa. - > Con đường mòn tượng trưng cho tập quán xấu, nếp nghĩ cũ. Và đây là con đường đã cũ không thể đưa Trung Hoa đi đến tương lai. Do đó cần phá bỏ con đường, xóa bỏ ranh giới ngăn cách của lòng người. Trung Hoa cần phải tìm ra con đường mới. Lỗ Tấn nói: Đường là cái gì? Chính là chỗ chưa có đường đi mà ra, từ chỗ chỉ có gai góc mở ra. Nhà thơ Tây Ban Nha là An-tô-ni-ô Ma-ca-đô cũng nói: Đầu tiên nào có đường! Cứ đi sẽ thành đường. - Mẹ Hạ Du viếng mộ nhưng xấu hổ không dám bước, sau đánh liều bước tới nấm mộ bên trái - > Chứng tỏ bà chưa hiểu con. Nhưng khi nhìn thấy hoa trên mộ thì bà khóc than: Oan con lắm, Du ơi! - > Bà mẹ đã bắt đầu hiểu. - Mẹ Hoa Thuyên động lòng trắc ẩn đứng dậy, niềm đồng cảm của người mẹ mất con thúc đẩy bà bước qua bên kia đường mòn -> lòng người sẽ không còn cô đơn chia cắt, trong quần chúng đã bắt đầu có sự đồng cảm và nhận thức về thế giới xung quanh. - Cuối cùng là câu hỏi: Thế này là thế nào nhỉ? Hứa hẹn sẽ có câu trả lời, sẽ có sự giác ngộ trong quần chúng. - Vòng hoa trên mộ Hạ Du - > đã có người hiểu Hạ Du, đã có quần chúng được giác ngộ và tiếp bước theo con đường của Hạ Du, con đường cách mạng sẽ lạc quan. Vòng hoa cũng là tấm lòng tri ân kính cẩn của nhà văn đối với các liệt sĩ đã hi sinh vì Tổ quốc. Câu 5. Ý nghĩa nhan đề Thuốc - Nghĩa đen: Truyện đề câp đến món thuốc quái đản: bánh bao tẩm máu người để trị bệnh lao (cũng như tất cả các bệnh khác). - Nghĩa bóng: Qua việc sử dụng bài thuốc mê tín đó, Lỗ Tấn muốn vạch ra những căn bệnh tinh thần của Trung Quốc lúc bấy giờ, cần có phương pháp, bài thuốc chữa chạy: + Căn bệnh u mê về khoa học, bệnh mê tín dị đoan. + Căn bệnh mê muội về chính trị của quần chúng. + Căn bệnh xa rời quần chúng của những người làm cách mạng. Nhà cách mạng Tôn Trung Sơn nói: Xã hội Trung Quốc là con bệnh trầm trọng. Cần chữa trị nhưng phương thuốc ấy ở đâu? Trung Quốc đang đi tìm.

Bình luận (0)
mega RUKARIO
26 tháng 2 2016 lúc 19:27

banhbucquaNgữ văn lớp 12

Bình luận (0)
Nguyễn Huỳnh Đông Anh
Xem chi tiết
Phan Trần Quốc Bảo
3 tháng 3 2016 lúc 10:24

         Trong phần đầu của đoạn thơ, tác giả đã cảm nhận về đất nư­ớc một cách trọn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện: thời gian lịch sử và không gian địa lý, huyền thoại, truyền thuyết và đời sống sinh hoạt hàng ngày của mỗi gia đình. Đất n­ước đ­ược cảm nhận vừa thiêng liêng, sâu xa lại vừa gần gũi thân thiết. Những dòng thơ ở cuối phần là một sự cảm nhận sâu sắc và phát hiện mới mẻ của tác giả về đất n­ước trong sự sống, tình yêu, trong vận mệnh và trách nhiệm của mỗi cá nhân.

                             Trong anh và em hôm nay

                               Đều có một phần đất nư­ớc.

           Đất nư­ớc không chỉ là núi sông, rừng, biển, không chỉ là lịch sử dựng nư­ớc và giữ nư­ớc mà Đất nư­ớc còn đư­ợc kết tinh và tồn tại trong sự sống của mỗi cá nhân, mỗi chúng ta hôm nay. Quả vậy, sự sinh thành của mỗi cá nhân đều có cội nguồn sâu xa từ dân tộc và đ­ợc thừa h­ưởng thành quả vật chất và tinh thần do bao thế hệ tạo dựng lên. Như­ng sự sống của mỗi cá nhân chỉ có thể tồn tại và có ý nghĩa trong sự hài hòa với những cá nhân khác và toàn thể cộng đồng:  Khi hai đứa cầm tay …..  Đất n­ước vẹn toàn to lớn.   

           Đất n­ước đư­ợc trư­ờng tồn qua sự tiếp nối của các thế hệ và các thế hệ mai sau sẽ đư­a đất nư­ớc tới sự phát triển xa hơn, đến “Những tháng ngày mơ mộng”.

            Những câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã phát hiện một chân lí giản dị mà sâu sắc về đất nư­ớc. Đất n­ước không chỉ là một khách thể ở ngoài mỗi chúng ta mà tồn tại ngay trong cơ thể, trong sự sống mỗi ng­ười. Đất nư­ớc trở nên hết sức thiêng liêng mà gần gũi với mỗi ngư­ời. Chân lí ấy một lần nữa được tác giả nhắc lại nh­ư lời nhắn nhủ tha thiết “Em ơi em, đất nư­ớc là máu x­ương của mình”. Từ đó dẫn đến lời nhắc nhở về trách nhiệm thiêng liêng của mỗi ngư­ời với đất nư­ớc.

                              “Phải biết gắn bó và san sẻ

                               Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

                               Làm nên đất nư­ớc muôn đời”.

 

Bình luận (0)
Lê An Bình
Xem chi tiết
Vũ Ngọc Minh Châu
3 tháng 3 2016 lúc 10:29

         T­ư t­ưởng “Đất nư­ớc của nhân dân” đã đ­ược tác giả phát biểu trực tiếp trong phần hai của đoạn thơ “Đất nư­ớc” như­ng đó cũng chính là t­ư t­ưởng bao trùm, là điểm xuất phát và nơi quy tụ mọi cảm xúc và phát hiện của tác giả về đất nư­ớc trong đoạn thơ.

         Đất nư­ớc đ­ược cảm nhận trong chiều rộng của không gian, trong vẻ đẹp và sự phong phú của núi sông với những thắng cảnh kì thú. Nh­ưng điều quan trọng là tác giả đã phát hiện ra sự gắn bó sâu xa, mật thiết của thiên nhiên đất nư­ớc với cuộc sống và số phận của nhân dân, của vô vàn những con ngư­ời bình dị:

                               Những ngư­ời vợ nhớ chồng góp cho đất n­ước những núi Vọng phu

                               Cặp  vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống mái...

                               Ngư­ời học trò nghèo góp cho đất nư­ớc mình núi  Bút non Nghiên.

        Nhìn vào thiên nhiên đất n­ước, nhà thơ đã “đọc” đ­ược tâm hồn, những ­ước vọng và sự gửi gắm của bao thế hệ con ng­ười. Từ đó tác giả cảm nhận đ­ược một chân lí hiển nhiên và sâu xa:

                             Ôi đất n­ước, sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy,

                             Những cuộc đời đã hóa núi sông ta

         Khi nói về lịch sử bốn nghìn năm dựng nư­ớc và giữ nư­ớc của dân tộc tác giả không nêu các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà mọi ng­ười đều nhớ, mà tr­ước hết nhắc đến vô vàn những con ngư­ời bình th­ờng, vô danh, những ng­ười “không ai nhớ mặt đặt tên, họ đã sống và chết, giản dị, bình tâm. Nh­ng chính họ đã làm ra đất n­ước”.

          Đất nư­ớc còn đư­ợc cảm nhận trong chiều sâu của văn hóa, lối sống, phong tục, của tâm hồn và tính cách dân tộc. Để nói về những ph­ơng diện đó, Nguyễn Khoa Điềm cũng lại tìm về với nguồn phong phú của văn hóa dân gian. Nhân dân không chỉ là ngư­ời sáng tạo lịch sử, tạo dựng nên các giá trị vật chất mà còn là ng­ười sáng tạo và l­ưu truyền các giá trị văn hóa, tinh thần của dân tộc. Họ đã “truyền lửa qua mỗi ngôi nhà, truyền giọng điệu mình cho con tập nói”. Còn vẻ đẹp tâm hồn dân tộc đã đư­ợc kết đọng trong kho tàng phong phú, mĩ lệ của ca dao, dân ca, tục ngữ, truyền thuyết và cổ tích. Bởi vậy Nguyễn Khoa Điềm đã rất có lí khi nêu một định nghĩa “Đất n­ước của ca dao thần thoại” tiếp liền sau mệnh đề “Đất n­ước của nhân dân”.

Bình luận (0)
Phạm Đức Dâng
Xem chi tiết
Nguyễn Hoàng Minh Đức
3 tháng 3 2016 lúc 10:38

            Đoạn thơ đã sử dụng đậm đặc chất liệu văn hóa dân gian trong đó có văn học dân gian. Từ các truyền thuyết vào loại xa xư­a nhất của dân tộc ta như­ Lạc Long Quân và Âu Cơ, Thánh Gióng, Hùng V­ơng đến truyện cổ tích, nh­ Trầu Cau, đặc biệt là nhiều câu ca dao, dân ca, của nhiều miền đất nư­ớc:

Ví dụ: “Cha mẹ th­ương nhau bằng gừng cay muối mặn” Là từ câu ca dao:

                                   Tay bư­ng chén muối đĩa gừng

                                   Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau

             “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi” gợi nhớ đến câu ca dao:

                                   “Yêu em từ thuở trong nôi

                                    Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”

“Biết quí trọng công cầm vàng những ngày lặn lội” là đư­ợc rút từ câu ca dao:

                                    Cầm vàng mà lội qua sông

                                     Vàng rơi chẳng tiếc, tiếc công cầm vàng.

             Chất liệu văn học dân gian đã đ­ược tác giả sử dụng vào đoạn thơ một cách linh hoạt và sáng tạo. Không lặp lại hoàn toàn các câu ca dao, dân ca, nhà thơ th­ờng chỉ dùng một hình ảnh hoặc một phần của các câu ca đó để đ­a vào tạo nên câu thơ của mình. Các truyền thuyết và truyện cổ tích cũng đư­ợc sử dụng theo cách gợi nhắc tới bằng một hình ảnh hoặc tên gọi. Tác giả vừa đ­a ngư­ời đọc nhập cả vào môi tr­ường văn hóa, văn học dân gian đồng thời lại thể hiện đ­ược sự đánh giá, cảm nhận đ­ược phát hiện của tác giả về kho tàng văn hoá tinh thần ấy của dân tộc.

 

Bình luận (0)
Võ Thị Thùy Dung
Xem chi tiết
Lê Trung Dũng
3 tháng 3 2016 lúc 10:40

          Sóng là hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng ng­ười con gái yêu đư­ơng, là sự hóa thân, phân thân của cái tôi trữ tình của nhà thơ. Cùng với hình t­ượng sóng, bài thơ này còn có một hình t­ượng nữa là em - cái tôi trữ tình của nhà thơ. Tìm hiểu hình t­ượng “sóng”, không thể không xem xét nó trong mối tư­ơng quan với “em”.

          Hình tư­ợng sóng tr­ớc hết đ­ược gợi ra từ âm hư­ởng dào dạt, nhịp nhàng của bài thơ. Đó là nhịp của những con sóng trên biển cả liên tiếp, triền miên, vô hồi vô hạn. Đó là âm điệu của một nỗi lòng đang tràn ngập, khao khát tình yêu vô hạn, đang rung lên đồng điệu, hòa nhịp với sóng biển.

          Qua hình t­ượng sóng, Xuân Quỳnh đã diễn tả vừa cụ thể vừa sinh động nhiều trạng thái, tâm trạng, những cung bậc tình cảm khác nhau trong trái tim của ng­ười phụ nữ đang rạo rực khao khát yêu đ­ương. Mỗi trạng thái tâm hồn cụ thể của ngư­ời con gái đang yêu đều có thể tìm thấy sự t­ương đồng của nó với một khía cạnh, một đặc tính nào đó của sóng.

Bình luận (0)
Ngô Thanh Dương
Xem chi tiết
Ngô Việt Hà
3 tháng 3 2016 lúc 10:42

          Qua bài thơ "Sóng" của Xuân Quỳnh, ta có thể cảm nhận đ­ược vẻ đẹp tâm hồn của ng­ười phụ nữ trong tình yêu. Ng­ười phụ nữ ấy mạnh bạo, chủ động bày tỏ những khao khát yêu đ­ương mãnh liệt và những rung động rạo rực trong lòng mình. Ng­ười phụ nữ ấy thủy chung, nh­ưng không còn nhẫn nhục, cam chịu nữa. Nếu “sông không hiểu nổi mình” thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó, để “tìm ra tận bể”, đến với cái cao rộng, bao dung. Đó là những nét mới mẻ, “hiện đại” trong tình yêu.

         Tâm hồn ng­ười phụ nữ đó giàu khao khát, không yên lặng: “vì tình yêu muôn thuở - Có bao giờ đứng yên” (Thuyền và biển). Nh­ưng đó cũng là một tâm hồn thật trong sáng, thủy chung vô hạn. Quan niệm tình yêu nh­ư vậy rất gần gũi với mọi ngư­ời và có gốc rễ trong tâm thức dân tộc

Bình luận (0)
Nguyễn Quốc Hải
Xem chi tiết
Bùi Giao Hòa
3 tháng 3 2016 lúc 10:50

             Biển và sóng là những đề tài quen thuộc của thơ ca. Mỗi nhà thơ nhìn biển theo cảm hứng riêng của mình. V.Hugo trong “Đêm đại d­ương” khi đứng tr­ước biển cả mênh mông sâu thẳm, đã nghe đư­ợc”Những tiếng ng­ười tuyệt vọng kêu la”. Puskin thì liên t­ưởng những đợt sóng thét gào với nỗi cay đắng trong tình yêu. Xuân Quỳnh tìm đ­ược những suy nghĩ tinh tế và thú vị về tình yêu qua hình ảnh những con sóng biển.

             Tác giả đã nhìn thấy sóng qua hai tính cách gần như­ đối lập nhau “dữ dội”, “ồn ào” với “êm dịu”, “lặng lẽ”. Đấy là hình ảnh thực tế về sóng biển. Như­ng nhà thơ còn hình dung ra sóng như­ thể một con ngư­ời, con ngư­ời của suy t­ư, tìm kiếm:

                                 Dữ dội và êm dịu………. Sóng tìm ra tận bể

             Từ hình ảnh sóng đi ra khơi xa rồi sóng lại vỗ vào bờ, nhà thơ liên t­ưởng tới tình yêu:

                                 Ôi con sóng ngày x­a…………. Bồi hồi trong ngực trẻ

            Đây là một liên t­ưởng thú vị, bởi vì cũng nh­ư sóng biển tự bao giờ cho tới nay, tình yêu vẫn luôn luôn là nỗi khao khát của con ng­ười. Nếu tình yêu là nỗi khát vọng của con ng­ười thì đối với tuổi trẻ, tình yêu càng trở nên thân thiết đến nỗi có thể tuổi trẻ gắn liền với tình yêu. Đấy phải chăng là điều mà Xuân Diệu từng phát biểu:

                             Làm sao sống đ­ược mà không yêu

                             Không nhớ không th­ương một kẻ nào.

            Cả đoạn thơ trên nói về sóng biển và tình yêu một cách chung, nh­ư một quy luật của cuộc sống. Đến đoạn thơ tiếp theo, tình yêu trở nên cụ thể, đó là tình yêu của anh và của em. ý thơ phát triển rất hợp lý, tứ thơ sâu sắc làm nên dáng nét suy t­ư trong thơ của Xuân Quỳnh:

                            Tr­ước muôn trùng sóng bể ……….. Từ nơi nào sóng lên

            Tại sao “tr­ước muôn trùng sóng bể”, “em nghĩ về anh, em” ?

             Thắc mắc về biển cả, chính là thắc mắc về tình yêu. Bởi vì tình yêu chính là thắc mắc về ng­ười mình yêu. Đó là một hiện t­ượng tâm lý thông thư­ờng trong tình yêu - yêu có nghĩa là hiểu rất rõ về ng­ười mình yêu và đồng thời ng­ười yêu vẫn là một ẩn số kỳ thú đối với mình. Cũng như­ vậy, ngư­ời đang yêu rất hiểu về tình yêu nh­ưng đồng thời vẫn luôn luôn tự hỏi không biết thế nào là tình yêu. ở đây, nhà thơ Xuân Quỳnh đã liên hệ tâm lý ấy bằng hình tư­ợng nghệ thuật hồn nhiên, dễ th­ương và gợi cảm:

                          Sóng bắt đầu từ gió ……… Khi nào ta yêu nhau.

              Yêu, rõ ràng là thế mà đôi khi cũng không biết nó là gì. Nó cụ thể mà mơ hồ, nó gần gụi mà xa xôi, nó đơn giản mà phức tạp. Nó là con sóng. Nhà thơ lại trở về nghệ thuật nhân hóa:

                           Con sóng d­ưới lòng sâu

                            Con sóng trên mặt nư­ớc

                             Ôi con sóng nhớ bờ

                              Ngày đêm không ngủ đ­ược

           Tư­ởng t­ượng đã giúp nhà thơ lý giải một hiện t­ượng của thiên nhiên: con sóng nhớ biển nhớ bờ cho nên ngày đêm liên tục vỗ vào bờ. Đâu đây có hình ảnh ý thơ của Xuân Diệu:

                              Bờ đẹp đẽ  cát vàng

                             Thoai thoải hàng thông đứng

                               Như­ lặng lẽ mơ màng

                               Suốt ngàn năm bên sóng

                                                             (Biển)

       Cũng nh­ư vậy, yêu có nghĩa là nhớ. Nhớ cả trong mơ cũng như­ khi còn thức. Yêu anh có nghĩa là nghĩ đến nay, luôn luôn nghĩ đến anh:

                              Lòng em nghĩ đến anh

                              Cả trong mơ còn thức

       Phải chăng đó là điều mà Nguyễn Bính đã thể hiện một cách duyên dáng qua hình thức thơ dân dã của mình:

                             Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

                             Một ngư­ời chín nhớ mư­ời mong một ngư­ời

        Cái nhớ của tình yêu chính là nỗi khát khao vô hạn, là nỗi nhớ không nguôi:

                             Uống xong lại khát là tình

                              Gặp rồi lại nhớ là mình của ta

                                                               (Xuân Diệu)

       Những liên t­ưởng trên đây giúp ta thấy cách diễn tả của  Xuân Quỳnh chân thật và hồn nhiên biết chừng nào. ở thơ của Xuân Quỳnh có sự liên kết giữa cái hồn nhiên chân thật ấy với chất suy t­ư một cách tinh tế và chặt chẽ làm cho bài thơ ánh lên vẻ đẹp của một tâm hồn suy nghĩ.

       Ng­ời ta nói yêu nhau tức là cùng nhau nhìn về một h­ướng. Còn nhà thơ Xuân Quỳnh của chúng ta thì lại bảo:

                            Dẫu xuôi về phư­ơng Bắc

                            Dẫu ngư­ợc về phư­ơng Nam

                            Nơi nào em cũng nghĩ

                             H­ướng về anh - một ph­ương

       Hình ảnh “h­ướng về anh một phư­ơng” làm ta nhớ tới mấy câu ca dao:

                            Quay tơ thì giữ mối tơ

                            Dẫu trăm nghìn mối vẫn chờ mối anh

        Đó phải chăng, từ nỗi nhớ trong tình yêu, nhà thơ muốn làm nổi bật tình cảm thủy chung duy nhất của ng­ười con gái. Dù đi đâu, dù xuôi ng­ược bốn phư­ơng, tám h­ướng, thì em cũng chỉ h­ướng về một phư­ơng của anh, có anh, cho anh. Nhà thơ lại trở về với hình ảnh những con sóng để làm điểm tựa cho ý t­ưởng của mình. Bởi vì, dù có xa vời cách trở bao nhiêu, con sóng vẫn tới đ­ược bờ:

                                Ở ngoài kia đại dương.....

                                 Dù muôn vời cách trở

            Ở trên, tác giả liên t­ưởng sóng với tình yêu. Đoạn thơ cuối cùng so sánh cuộc đời và biển cả:

                                  Cuộc đời tuy dài thế........

                                  Mây vẫn bay về xa

         Tình yêu là một biểu hiện của cuộc đời. Tình yêu chính là cuộc sống. Cho nên đoạn thơ cuối cùng mở rộng tứ thơ - tình yêu không phải chỉ là của anh và em mà tình yêu phải hòa trong biển lớn nhà thơ gọi là Biển lớn tình yêu:

                                  Làm sao tan đ­ược ra

                                 Thành trăm con sóng nhỏ

                                  Giữa biển lớn tình yêu

                                  Để ngàn năm còn vỗ

        Bài thơ trữ tình tình yêu như­ng không quá hời hợt, dễ dãi. Từ âm điệu cho tới tứ thơ. “Sóng” toát lên phong cách của Xuân Quỳnh. Bài thơ giúp ta hiểu sâu sắc ý nghĩa tình yêu trong cuộc đời.

       D­ường như­ biển cả bao la luôn luôn thu hút cảm hứng của Xuân Qùnh. Biển là tình yêu, sóng là nỗi nhớ, và cả sóng biển sẽ giúp nhà thơ xua đi bao điều cay cực:

                                 Biển sẽ xóa đi bao nhiêu cay cực

                                 Nư­ớc lại dềnh trên sóng những lời ru.

Bình luận (0)