Sống trên một vùng cao nguyên mênh mông, hùng vĩ, nhiều rừng, nhiều nắng, nhiều mưa các tộc người Tây nguyên đã biết thích nghi với thiên nhiên hào phóng quanh mình. Phát rừng, làm rẫy, trồng lúa, ngô, khoai, bầu bí để ăn, bông để mặc. Trên cơ sở của một nền kinh tế trồng trọt nương rẫy đạt đến trình độ tương đối ổn định và thành thạo, con người Tây nguyên đã sáng tạo nên một nền văn hóa khá toàn diện, mang đậm bản sắc dân tộc.
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, giá trị văn hóa Tây nguyên quy tụ ở ba giá trị cơ bản: văn hóa hữu hình,văn hóa tinh thần và văn hóa nghệ thuật.
Giá trị văn hóa hữu hình ở Tây nghuyên đến nay vẫn giữ nguyên giá trị của nó. Đó là những ngôi nhà rông, nhà sàn của người Bana, Gialai, Êdê, Mnông hướng về phía bắc nam để lấy ánh sáng mặt trời tới sườn Đông Tây như hoa hướng dương. Đó là cầu thang nhà rông nhà sàn mang dáng bầu vú mẹ tiêu biểu cho mẫu hệ Tây nguyên, là những thiết chế nhà dài (kopan) được đẽo nguyên từ thân cây lớn, là ché rựu cần bên bếp lửa hồng, là những công cụ sản xuất thô sơ bằng đá, bằng đồng, là những vòng bạc, vòng đồng đeo ở cổ tay, chân trong những gày hỏi chồng(Trôk kô - ông), lễ thỏa thuận (Bi Kuộd) và lễ cưới ( Kbih Ungmô)
Những danh lam thắng cảnh nổi tiếng trong và ngoài Thành phố Đà lạt như thác Đămbơri, thác Premli thơ mộng với hồ than thở, thung lung tình yêu... giá trị văn hóa hữu hình ở Tây nguyên còn phải kể đến vườn Quốc gia Yooc Đôn, Nom Ka, cao nguyên Konplong, khu rừng nguyên sinh Chư Mô Ray Đakuy núi Ngọc Linh với những chim thú, cây rừng hiếm quý, với thác Trinh Nữ mộng mơ, thác Yali hùng vĩ, thác Drây Sap, hồ Lắk, Dắk Tré, Kon Lak còn in đậm nét hoang dã. Giá trị vật thể ở Tây nguyên còn là những chứng tích căn cứ kháng chiến Bản Đôn, của làng Kông Hoa quê hương của những ngày đầu "Đất nước đứng lên", là ngục Kông Tum, đường mòn Hồ Chí Minh, là chiến thắng An Khê, một đỉnh cao của thời kỳ chống Pháp, là chiến thắng Plây Me, Đắk Tô, Tân Cảnh, chiến thắng lịch sử Ban Mê Thuật hào hùng với thời kỳ chống Mỹ.
Giá trị văn hóa tinh thần của Tây nguyên hội tụ đậm nét ở lê hội. Lễ hội là một hình thái sinh hoạt tinh thần mang đậm đà bản sắc dân tộc Tây nguyên, thường được tổ chức sau những ngày lao động mệt nhọc. Giá trị văn hóa tinh thần trong lễ hội của người Tây nguyên được thể hiện trong các lễ hội nông nghiệp, lễ hội phong tục, lễ hội tôn giáo, lễ hội lịch sử như hội mùa, lễ tỉa hạt, lễ cúng máng nước, cúng nồi, lễ đâm trâu, lễ hội Pơ thi, Lễ hội Cồng chiêng...Lễ hội của đồng bào Tây nguyên là bài ca về lòng yêu nước nồng nàn của các dân tộc Tây nguyên, là truyền thống coi trọng quá khứ, uống nứơc phải nhớ lấy nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây, là bài ca về tình yêu thương cộng đồng qua biểu tượng "Đàu trâu máng nứơc", là tinh thần bao dung hòa đồng trong quan niệm hoang "sơ thiên, địa, nhân", là tinh thần thượng võ trong đấu tranh với thiên nhiên, với kẻ thù qua các lễ đâm trâu, lễ hội Cồng Chiêng, múa khiên, múa trống, là sự thủy chung trọn vẹn trong tình yêu qua "bổ củi hứa hôn" và "chiếc vòng cầu hôn".
Giá trị văn hóa tinh thần ở Tây nguyên còn được thể hiện ở những kinh nghiệm thuần dưỡng voi, ở những bài thuốc gia truyền chữa bệnh,ở kỹ thuật đúc đồng để chế tạo ra đàn đá và nhạc khí Cồng Chiêng, là các nghệ nhân điêu khắc qua các tượng nhà mồ của các dân tộc Gia Rai, Bana, Êđe,Mnông, là kỹ thuật trang trí dệt nên những hoa văn của các trang phục các dân tộc, là tinh thần anh dũng, mưu trí tuyệt vời qua truyền thuyết Đam San, Xing Nhã, Đia Đon, cũng như các anh hùng thời nay như anh hùng Núp, anh hùng Nơ Trang Long... Được hội tụ lại trong làng Kông Hoa, Bản Đôn, trong chiến thắng An Khê, Plây Me, Buôn Mê Thuật, Sa Thày, Đắk Tô, Đắk Nông, Đắk Min. Giá trị tinh thần còn đọng lại 200 tục lệ của người Êđê, 100 tục lệ của người Mnông và hàng nghàn tục lệ của người Gia Rai, Bana,Giẻ Triêng, Rơ Ngao, Xê Đăng, qua các ứng xử trong cộng đồng, qua việc ăn, ở, mặc, giải trí, trong việc cưới, tang, lễ nghi,tín ngưỡng và tôn giáo.
Giá trị vật thể trong văn hóa nghệ thuật Tây nguyên bao gồmnhạc khí, kiến trúc, hội họa trên các trang phục. Nhạc khí các dân tộc Tây nguyên không thể không nói đến nhạc cụ dây(cordiophon)gồm các loại kèn vĩ như đàn Kơ ny, loại búng như đàn Goong, loại gẩy như đàn Brô hay nhạc cụ hơi(Airophone) có loại hơi lùa như Đinh Duk, Klongut,loại lưỡi gà rung tự do như Alat Tơ Điệp Đinh khan, loại hơi lỗ vòm như Đinhtuk hoặc nhạc cụ tự thân vang ldiophone như đàn trưng, chiêng Kial, Khinh Khung, Klong Klai cũng như nhạc cụ màng rung(Membranophone) gồm trống Sơgơr(trống nhỏ đeo trước ngực)và trống Pơ Nông(trống lớn treo lên hoặc khênh đi để đánh).
Kiến trúc Tây nguyên trước hết phải nói đến kiến trúc nhà mồ. Tuy nó là kiến trúc dân gian thuộc loại không lớn nhưng có thể nó không có một dạng kiến trúc nào của Tây nguyên lại có thể so sánh với nó về giá trị nghệ thuật kiến trúc và giá trị nghệ thuật tạo hình. Nhà mồ là sản phẩm kết tinh của nhiều loại hình nghệ thuật, là tác phẩm nghệ thuật tổng hợp, nó là kiến trúc, là điêu khắc, là hội họa, là trang trí.
Tiếng cồng triêng trầm hùng, sâu lắng suốt ngày đêm của lễ hội bỏ mả có tác dụng như đẩy lùi cả bầu trời ra xa, đem xuống cả bức tranh nhà mồ càng uy nghi, hoành tráng hơn bởi hàng trăm đống lửa rực sáng bừng lên giữa cõi âm u tĩnh mịch của núi rừng tạo nên như một thiên cung huyền ảo.
Theo quan niệm của người Tây nguyên chết không phải là hết mà là sự tiếp tục của cụôc sống ở dạng khác để rồi sẽ trở lại làm người cho lên nhà mồ Tây nguyên với lễ hội bỏ mả họp thành biểu tượng , hợp thành bài ca đề cao sự sống bất diệt của con người chứ không phải đền đài, miếu mạo để thờ tự người chết hay lăng tẩm để vĩnh viễn hóa cái chết của một người, vật nào đó như các dân tộc khác.
Giá trị văn hóa nghệ thuật Tây nguyên còn thể hiện trong nghệ thuật trang chí hoa văn. hóa văn cổ truyền Tây nguyên không phải ra đời trong phút chốc dưới ngòi bút của cá nhân họa sĩ nào đó mà dần dần được hiện hình qua cuộ sống lâu dài của từng tộc người. Nhìn hoa văn các dân tộc Tây nguyên người xem rung động trước hình khối, màu sắc không chỉ hiện hình trên mặt vải mà còn có hoa văn trên đồ đan lát (gùi, bồ), hoa văn vẽ, khắc, thậm chí đục thủng trên các bộ phận kiến trúc và hiện vật nghi lễ (ở nhà chung của làng, trên cột đâm trâu, cột lễ nhà mồ).
Hoa văn trang phục Tây nguyên gắn bó với dáng vóc, thân thể của con người Tây nguyên,với cuộc sống hàng ngày, với thiên nhiên của núi rừng Tây nguyên, mang lại giá trị thẩm mỹ tuy giản dị nhưng lại đậm đà tinh tế. Hoa văn Tây nguyên chủ yếu là hoa văn hình họa.
Giá trị phi vật thể thành văn và không thành văn của văn hoa Tây nguyên chủ yếu là văn hóa dân gian khuyết danh và truyền miệng, đó là phôn cờ-lo Tây nguyên, còn văn hóa bác học về các tác giả, tác phẩm lớn, các nhà văn hóa thì vẫn còn khiêm tốn.
Về mặt hình thái học, tính diễn xướng là đặc trưng cơ bản của phôn cờ-lo vì nó quy định những cách kết hợp khác nhau của các phưng tiện diễn tả.
Văn hóa dân gian ở đây có các thể loại như Tơpun( đồng giao), Pơ đuk( ca dao, tục ngữ, thành ngữ). Avòng(giao duyên), Tơ roi(chuyện kể các loai bao gồm cả truyền thuyết, thần thoại, ngụ ngôn), Blao(chuyện cười), Hơri (hát đối đáp), Hơ Amôn( trường ca), ngoài ra còn có các loại văn vần dùng trong các bài khấn, tế, phù chú như somak, khia, Kơmưt, Tơdok, Ninhmang.
Sự phát triển song song giữa nhạc có lời (nhạc hát) và nhạc không có lời (nhạc đàn)là hiệ tượng đáng lưu ý ở Tây nguyên. Âm nhạc và văn hóa dân gian không thể tách lời nhau và tất cả các thể loại văn học kể trên đều được trình diễn bằng một hay nhiều làn điệu. Các dân tộc Tây nguyên không bao giờ "sáng tác" văn học ngoài các làn điệu( thơ ca dân gian)hay ngoài thể thức kể diễn (văn xuôi dân gian). Chẳng hạn, tùy theo nội dung cụ thể các bài thơ giao duyên sẽ được hát lên bằng một trong các làn diệu Aroong, Brô-ông, lnhing, Sơtang hay Srơ-di
Có thể nói phôn cờ-lo Tây nguyên là cuốn sử dân tộc được viết bằng nghệ thuật, bằng ngôn ngữ hình tượng trong đó cuộc sống qua khứ và hiện tại, ngọt bùi và cay đắng, khát vọng, ước mơ của con người được phả ánh và mô tả sắc nét
UNESCO, tổ chức văn hóa giáo dục khoa học Liên Hiệp Quốc vừa qua đã công nhận"không gian văn hóa cồng chiêng Tây nguyên là nghệ thuật truyền khẩu đặc sắc và di sản phi vật thể cảu nhân loại. Đây là phần thưởng quý giá, tôn vinh nền văn hóa Việt Nam và con người Việt Nam những người biết duy trì và phát huy giá trị văn hóa Tây nguyên.
Trước khi tìm hiểu về bản sắc văn hoá Tây Nguyên, chúng ta cần hiểu thế nào là bản sắc văn hoá. Bản sắc văn hóa là cái cốt lõi, đặc trưng riêng có của một cộng đồng văn hóa trong lịch sử tồn tại và phát triển, giúp phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Nó thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống - ý thức của một cộng đồng, bao gồm: cội nguồn, cách tư duy, cách sống, dựng nước, giữ nước, sáng tạo văn hóa, khoa học - nghệ thuật... Khái niệm bản sắc có hai quan hệ cơ bản: quan hệ bên ngoài là dấu hiệu để phân biệt các cộng đồng với nhau và quan hệ bên trong chỉ tính đồng nhất mà mỗi cá thể trong một cộng đồng phải có.
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng đã nêu rõ: "Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa vun đắp nên qua lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, trở thành những nét đặc sắc của cộng đồng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình, làng nước, lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đầu óc thực tế, tinh thần cần cù, sáng tạo trong lao động, tế nhị trong ứng xử, giản dị trong lối sống".
Như vậy, có thể hiểu bản sắc văn hóa như là yếu tố cốt lõi tạo nên bản sắc dân tộc, và tới lượt nó, bản sắc dân tộc góp phần tạo nên bản lĩnh dân tộc, tức là sức sống và sự từng trải của dân tộc. Nhờ đó mà dân tộc có thể vững vàng và trường tồn trước thử thách khắc nghiệt của lịch sử.
Vậy, bản sắc văn hóa là gì? Đó là tổng thể các giá trị đặc trưng của văn hóa dân tộc, được hình thành, tồn tại và phát triển suốt quá trình lịch sử lâu dài của đất nước, với các giá trị đặc trưng mang tính bền vững, trường tồn, trừu tượng và tiềm ẩn.Do vậy, muốn nhận biết nó phải thông qua vô vàn các sắc thái văn hóa, với tư cách là sự biểu hiện của bản sắc văn hóa ấy. Nếu bản sắc văn hóa là cái gì trừu tượng, tiềm ẩn, bền vững thì các sắc thái biểu hiện của nó thường tương đối cụ thể, bộc lộ và khả biến hơn.
Từ quan niệm chung đó, chúng ta có thể xem xét các sắc thái văn hóa vô cùng phong phú và đa dạng của bản sắc văn hóa Tây Nguyên, được biểu hiện qua kho tàng văn học truyền miệng, qua nghệ thuật cồng chiêng, qua các lễ hội của các dân tộc Tây Nguyên. Thông qua các biểu hiện đặc sắc này, chúng ta sẽ hiểu được những đặc điểm, bản sắc độc đáo, đặc thù của vùng văn hoá Tây Nguyên - một vùng văn hoá hình thành và phát triển chủ yếu trên cơ sở của nền “văn minh nương rẫy”, khác cơ bản so với “văn minh lúa nước” ở vùng đồng bằng.
Cồng chiêng Tây Nguyên là nơi chứa đựng những giá trị kiệt tác của nhân loại. Không chỉ có sức hấp dẫn đặc biệt ở sự đa dạng độc đáo kỹ thuật diễn tấu mà cồng chiêng còn là biểu tượng cho cuộc sống của con người nơi đây.
Văn hoá cồng chiêng được bắt nguồn từ văn minh Đông Sơn cổ đại, nền văn minh được biết đến với tư cách là một nền văn hoá trống đồng nổi tiếng ở Đông Nam Á. Nghệ thuật cồng chiêng của Việt Nam đã phát triển đến một trình độ cao so với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Giá trị văn hóa của cồng chiêng ở Việt Nam có vị thế đặc biệt nổi bật trong hệ nhạc khí cổ truyền bởi nó bắt nguồn từ sự tổng hoà các giá trị văn hóa đa dạng như: giá trị biểu thị đặc trưng và bản sắc văn hóa vùng; giá trị biểu thị đặc trưng văn hóa tộc người hoặc nhóm tộc người; giá trị phản ánh đa chiều; giá trị nghệ thuật; giá trị sử dụng đa dạng; giá trị vật chất; giá trị biểu thị sự giàu sang và quyền uy; giá thị tinh thần; giá trị cố kết cộng đồng và giá trị lịch sử.
Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên bao trùm 5 tỉnh Tây Nguyên, tập hợp của nhiều dân tộc thiểu số. Cồng, chiêng là loại nhạc khí bằng hợp kim đồng, có khi pha vàng, bạc hoặc đồng đen. Cồng là loại có núm, chiêng không núm. Các dàn cồng chiêng thường gồm nhiều bộ. Mỗi bộ có số lượng khác nhau và đảm nhiệm những chức năng riêng trong cuộc hoà tấu. Nhạc cụ cồng chiêng có nhiều cỡ, đường kính từ 20, 50 đến 60 cm, loại cực đại tới 90 - 120 cm. Cồng chiêng có thể được dùng đơn lẻ hoặc dùng theo dàn, một bộ có từ 2 đến 12 - 13 chiếc, thậm chí có nơi tới 18 - 20 chiếc. Trong một bộ chiêng có chiêng mẹ (chiêng cái) là quan trọng nhất.
Các dàn cồng chiêng không chỉ làm nhiệm vụ điểm nhịp, đi tiết tấu hoặc giai điệu một bè mà còn hoà tấu nhạc đa âm. Cồng chiêng có thể được gõ bằng dùi hoặc đấm bằng tay. Có thể gõ vào giữa mặt chiêng hay đánh ngoài rìa tùy theo bài bản. Người Êđê đa số sử dụng loại dùi cứng tạo nên tiếng vang rất to nhưng lại có nhiều tạp âm. Người Bana thường sử dụng dùi làm bằng cây sắn là loại gỗ mềm hơn, tuy nét nhạc không vang bằng nhưng âm cơ bản nghe rất rõ. Loại dùi thứ ba làm bằng gỗ thường có bọc thêm một lớp bên ngoài (xưa kia người ta sử dụng da tinh hoàn của trâu, bò hoặc dê, về sau được bọc bằng vải rồi đổi sang bọc bằng cao su). Dùi loại này phù hợp nhất vì tạo nên âm thanh rất hay. Khi đánh cồng, bàn tay mặt của nhạc công vỗ vào núm cồng như xoa dịu. Trước đây một số nhà nghiên cứu tưởng rằng chỉ có một cách đánh bên ngoài mà thôi, nhưng về sau mới biết bàn tay trái nắm ở bên trong cũng tham gia biểu diễn với nhiều cách, hoặc nắm vào vành hoặc bóp vành rồi buông ra, giống như cách nhấn nhá trong các loại đờn dây hay cách ém hơi trong kỹ thuật hát. Thậm chí có khi nhạc công đeo thêm chiếc vòng để khi lắc tay thì chiếc vòng đụng vào mặt trong phối hợp với tiếng gõ bên ngoài.
Người Tây Nguyên còn có nhiều phong cách chơi cồng chiêng rất phong phú và bài bản. Nếu dàn cồng chiêng ở các nước khác, chẳng hạn như Gamelan ở Java, Gong Kebyar ở Bali (Indonesia) hay Kulingtan, dân tộc Mindanao của Philippines, nhạc công luôn ngồi yên tại chỗ thì người đánh cồng chiêng Tây Nguyên luôn di động, còn động tác thì đa dạng như nghiêng mình, cúi người, khom lưng ... Người Bana và Giarai có phương pháp đánh chỉ điệu (một bài trầm đánh trên một vài giai điệu); người Êđê đánh theo cách thức từng chùm...
Người dân Tây Nguyên không chỉ dùng riêng một loại chiêng núm hoặc chiêng bằng, mà thường dùng kết hợp với nhau. Trong đó, chiêng núm làm bè trầm, chiêng bằng đánh giai điệu. Khi biểu diễn vòng tròn, các nghệ nhân đánh và di chuyển dàn cồng chiêng từ phải qua trái với ý nghĩa ngược chiều với thời gian, hướng về nguồn cội.
Giá trị của cồng chiêng không chỉ thể hiện ở kỹ thuật chế tác mà nó còn có ý nghĩa tâm linh. Cồng chiêng đại diện cho văn hoá Tây Nguyên, được sử dụng trong nhiều nghi lễ, tín ngưỡng quan trọng. Cồng chiêng được xem là ngôn ngữ giao tiếp hàng đầu của con người với thần thánh và thế giới siêu nhiên. Người Giarai, khi đứa trẻ được sinh ra, trong lễ hội "thổi tai", tiếng chiêng sẽ cấp cho đứa bé những tín hiệu đầu tiên của văn hoá dân tộc. Chiêng còn sử dụng khi làm đám cưới, làm nhà mới, làm rẫy, đưa người chết ra mồ và cả khi bỏ nhà mồ. Chiêng đem cái thiêng vào cuộc sống, khiến con người cảm thấy được sống trong một không gian thanh cao, tâm linh, huyền ảo. Tiếng cồng chiêng Tây Nguyên hoà nhịp âm vang gợi cho người nghe như thấy được cả không gian săn bắn, không gian làm rẫy, không gian lễ hội... của con người nơi đây. Không chỉ có vậy, tiếng cồng chiêng còn đem đến cho đời sống của người Tây Nguyên sự lãng mạn. Đó chính là nguồn gốc của những áng sử thi, thơ ca đi vào lòng người.
Ngày 15/11/2005, UNESCO công nhận “Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên là kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại”. Sự kiện này có ý nghĩa to lớn đối với cả nước nói chung và Tây Nguyên nói riêng, khơi dậy niềm tự hào về truyền thống văn hoá vừa đa dạng phong phú, vừa độc đáo và giàu bản sắc của các dân tộc Tây Nguyên.
Trong kho tàng văn hoá phong phú của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, bên cạnh giá trị của âm nhạc cồng chiêng đã được công nhận là "di sản văn hoá phi vật thể" của UNESCO, còn phải kể đến giá trị của sử thi. Đó là những áng anh hùng ca mà tuỳ theo ngôn ngữ mỗi dân tộc, được gọi là Khan (theo tiếng Êđê), là Hom (đồng bào Bana), là Hri (đồng bào Giarai), là Ot nrông (đồng bào Mnông)… Gọi là anh hùng ca là căn cứ vào âm điệu anh hùng trong các tác phẩm dân gian ấy. Nhưng có lẽ gọi một cách khoa học chính xác, đó là sử thi. Sử thi hình thành trên nền tảng văn hoá, văn nghệ dân gian thời sơ sử và thời cổ đại, trước hết trên nền tảng thần thoại. Thần thoại phản ánh nhận thức của người xưa về thế giới, về nhân loại, về cuộc sống… Thần thoại thường gắn liền với phong tục, tập quán, nghi lễ và ca múa nhạc nguyên thuỷ.
Tây Nguyên là vùng đất sản sinh khá nhiều sử thi và do đó được các nhà khoa học gọi là "vùng sử thi". Từ sau sử thi “khan Đam San” của người Êđê được công bố đầu tiên từ năm 1927, đến nay đã phát hiện được trên 20 sử thi, trong đó có các sử thi nổi tiếng còn truyền tụng tới nay, như ĐămDi, Chilơkok, Khinh Dú, Đăm Đơroăn, Y Prao, và M’hiêng (của người Êđê), Ot mrông, Cây nêu thần, Mùa rẫy Bon (của Mnông) H’điêu, Chín chiêng, Zông (Giarai), Đăm Noi, Xing chi ôn, Diôông (Bana),… Sử thi không chỉ là đặc trưng, nét độc đáo duy nhất của vùng văn hoá Tây Nguyên, mà vùng này còn thể hiện tính thống nhất của mình qua nhiều hiện tượng văn hoá tiêu biểu khác, như âm nhạc cồng chiêng, văn hoá nhà mồ, các loại luật tục khác… Đây là một biểu hiện của sự thống nhất thể loại của vùng văn hoá Tây Nguyên. Diễn xướng sử thi ở Tây Nguyên thường diễn ra trong các dịp hội hè, tiếp khách, mừng nhà mới, cưới xin… ở nhà rông hay ở nhà dài. Các nghệ nhân vừa hát kể sử thi, vừa đệm nhạc, điệu bộ.
Sử thi Tây Nguyên, do đó, là một giá trị tinh thần, được đồng bào Tây Nguyên lưu giữ trong trí nhớ và được diễn xướng trong các sinh hoạt cộng đồng mà chúng ta có thể gọi là “văn hoá sử thi”. Sử thi chứa đựng trong nó những tri thức bách khoa của cộng đồng các dân tộc. Nếu người Ấn Độ nói rằng, mọi cái hiện có ở Ấn Độ đều đã có trong “Mahabhrata” thì người Mnông cũng cho rằng mọi thứ trong cuộc sống của họ đều có từ thời Tiang, Yang (hai nhân vật sử thi). Vì vậy, kho tàng sử thi Tây Nguyên là một kho tàng văn hoá vô giá, là món ăn tinh thần không thể thiếu của người Tây Nguyên.
Bao trùm lên tất cả trong đời sống tinh thần của người Tây Nguyên có lẽ là lễ hội truyền thống, biểu thị những quan niệm của họ về con người, về vũ trụ ít nhiều còn thô sơ, chất phác nhưng họ rất tin thờ. Những lễ quan trọng - dù là phục vụ sản xuất hay cho con người - đều trở thành những hội vui, cuốn hút sự tham gia của toàn thể cộng đồng, thậm chí các dòng tộc khác hoặc buôn lân cận (ví dụ như lễ cúng bến nước - hay còn gọi là uống nước giọt vào dịp cuối năm cũ hoặc đầu năm mới; lễ ăn cơm mới - đóng cửa kho lúa vào dịp thu hoạch mùa màng; lễ cưới cho người trẻ, lễ mừng thọ người già, lễ bỏ mả - phơ thi cho người đã khuất...). Mỗi hội lễ là một tổng thể nguyên hợp, tiêu biểu cho đời sống văn hóa cổ truyền các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, cho nền văn minh nương rẫy.
Có thể nói, lễ hội truyền thống Tây Nguyên - đặc biệt ở những lễ hội có hiến sinh trâu (thường gọi là lễ đâm trâu) – là môi trường duy nhất mà ở đó tất cả những tinh hoa trong văn hoá vật thể và phi vật thể của từng tộc người, từng nhóm địa phương, từng làng được thể hiện. Đến đây, ta sẽ được nghe tiếng chiêng ngân vang từ bộ cồng chiêng cổ nhất, có âm thanh hay nhất làng; được xem những thiếu nữ uyển chuyển bước trong vòng xoang theo nhịp trống chiêng; được chiêm ngưỡng những giàn cúng (cột gơng) với những tua đan bằng tre nứa, sặc sỡ sắc màu, vút lên giữa trời cao nguyên lộng gió; được thấy những bộ trang phục và đồ trang sức đẹp nhất, quý nhất; được say trong men rượu cần ấm nồng; được thoả sức tìm hiểu tập quán ẩm thực…
Ngoài những nghi lễ nông nghiệp, những lễ hội đâm trâu nổi tiếng, người Tây Nguyên còn đặc biệt chú trọng những nghi lễ đối với người chết. Họ coi thế giới người chết đứng về một phía đối diện ngang tầm với người sống, và có thái độ ứng xử độc đáo. Đó là lễ “bỏ mả” - một biểu tượng nói lên ý nghĩa người sống tiễn biệt người chết, làm cho âm dương cách biệt hoàn toàn, để người chết đi vào thế giới của họ, để được đầu thai trở lại. Đó là một màn trình diễn tổng hợp của cả cộng đồng với tất cả những cái họ có: âm nhạc cồng chiêng, múa hoá trang, múa mặt nạ, con rối… trong chất men thiêng và sức mạnh cộng đồng. Đó là một màn diễn xướng không có lời biểu hiện ý niệm hoá thân từ cõi chết sang cõi sống dựa trên huyền thoại khởi nguyên về sự sinh thành loài người. Nhà mồ, với tư thế vươn lên chiếm lĩnh chiều cao giữa cảnh núi rừng bao la hùng vĩ được nhân lên bội phần bởi những đống lửa bập bùng lan toả trong không gian, bởi tiếng cồng chiêng âm vang ngút ngàn, đẩy nhà mồ cao tận trời xanh, phá vỡ mặt bằng tự nhiên tạo nên khoảng khắc hoàng tráng, sinh động giữa nơi âm u, tĩnh mịch của Tây Nguyên. Có thể nói, nhà mồ như biểu tượng cây vũ trụ với tiếng cồng chiêng và ánh lửa nối liền đất trời - con người - thần linh - cõi sống - cõi chết.